(GD&TĐ) - Văn Cao là một nghệ sĩ đa tài trong nhiều lĩnh vực: Nhạc sĩ, thi sĩ, họa sĩ... Riêng thơ, hành trình vào thế giới thơ của ông, người đọc không thể không đi sâu vào thế giới nội tâm, để tìm hiểu Một đêm đàn lạnh trên sông Huế - bài thơ tiêu biểu nhất ...
Trên dòng sông thi ca
Sông trắng bờ xa lộ bóng nhà. Ảnh: Vũ Hào |
Sinh thời, vào năm 1986, trong một bức thư gửi cho tạp chí Sông Hương, ông tâm sự: "Huế là nguồn sáng tạo của tôi trong những năm 40”. Hai tình khúc của Văn Cao vào thời điểm ấy được đánh giá cao hơn cả là Thiên thai và Trương Chi. Bản Thiên thai được nhà xuất bản Tinh Hoa (Huế) in năm 1944 và tái bản nhiều lần, khi ấy Văn Cao tự nhận mình là "Người sông Ngự". Văn Cao đến với Huế lúc còn rất trẻ. Rất khác người, ông gọi sông Hương là “Sông Huế”. Chàng lãng tử quê Hải Phòng đã qua đêm trên sông Huế như thế này:
Nẩy nẩy tơ đồng nhịp nhịp đôi
Lòng nâng ngòn ngọt lại đầu môi
Này em hát khúc tương tư nhé
Ngâm khẽ em ơi nhẹ nhẹ lời
Sao đàn u hoài gì mùa thu?
Sao đàn u hoài gì mùa thu?
Tri âm nghe thử dây đồng vọng
Lạc lõng đêm vàng khi nhạc ru
Nét bút thủy mặc của Văn Cao đã chấm phá đúng cảnh sông Huế về khuya (Dòng Tiêu Kim Thủy - tên gọi sông Hương).
Dòng Tiêu Kim Thủy gà xao xác
Ngẩng thấy kinh kỳ khói vấn vương
và
Từng canh trời điểm một sao rơi
Tà tà trăng lặn hiu hiu gió
Ánh lửa chài xa thấp thoáng trôi
Văn Cao là người đánh đàn cho người đẹp hát. Ông có cách chọn vị trí chủ thể thẩm mỹ trong bài thơ không giống ai. Tố Hữu có bài thơ Tiếng hát sông Hương; Xuân Diệu có Nguyệt Cầm và Lời kỹ nữ; Thế Lữ có Nghe đàn nguyệt.... đều là những bài thơ viết về sông Hương, ca Huế, đàn Huế, nhưng họ đều ở vị trí người quan sát. Trái lại, Văn Cao là người trong cuộc:
Như Tử Kỳ nghe nhạc Bá Nha
Em nghe anh dạo khúc thu xa
Thuyền xuôi về bến mô thuyền hỉ
Sông trắng bờ xa lộ bóng nhà
Giọng hát sầu chi phấn nữ ơi
Đọc thơ Văn Cao, ta thấy nghệ thuật dùng chữ của ông toát ra những hình ảnh giàu chất thơ và đặc biệt giàu nhạc điệu. Để tạo ấn tượng mạnh với người đọc, thơ ông sử dụng từ ngữ, âm điệu Huế. Trong bài Một đêm đàn lạnh trên sông Huế Văn Cao sử dụng ba phương ngữ Huế là hỉ, đôi, ngó (Nẩy nẩy tơ đồng nhịp nhịp đôi/ Thuyền xuôi về bến mô thuyền hỉ/ Biệt ly đôi phách ngó đàn tranh) tạo nên một phong thái riêng.
Văn Cao là người phóng khoáng, phóng khoáng bẩm sinh chứ không phải ngụy tạo. Tiếng thơ rưng rưng một cảm xúc rất chân thực, trước vẻ đẹp trần thế, biểu lộ niềm hạnh phúc dạt dào:
Tay nhấn tơ chùng đã ngấm sương
Hò ngân cung Bắc lướt cung Thương
Dòng Tiêu Kim Thủy gà xao xác
Ngẩng thấy kinh kỳ khói vấn vương
Em cạn lời thôi anh dứt nhạc
Biệt ly đôi phách ngó đàn tranh
Một đêm đàn lạnh trên sông Huế
Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh
Thấp thoáng mộng bình yên
Bài thơ tượng trưng cho một tình yêu “thấp thoáng”, vừa trong sáng vừa thiết tha, u uất. Tình yêu nơi đây chỉ là nỗi niềm thương nhớ mông lung nhẹ nhàng. Trong ý thơ và trong lời thơ cũng như trong không gian do hình ảnh và nhạc tính cấu tạo, chỉ có nỗi niềm u hoài mơ mộng. Tiếng đàn đưa ông trở về chơi vơi trên sóng nhạc, với kỷ niệm tình yêu; nhớ thương vạn cổ. Trước cô gái, người lữ khách chỉ dừng lại một đêm rồi ra đi (Một đêm), mang theo nhiều lưu luyến (Ôi nhớ nhung hoài):
Một đêm đàn lạnh trên sông Huế
Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh
Tình cảm kín đáo. Bài thơ giản dị mà thắm thiết. Âm điệu thơ như lùa vào nhau, khi rộn ràng, khi trầm lắng. Đây là những vần thơ bình yên, nhất của Văn Cao, thể hiện tâm hồn ông có khuynh hướng bình thản, gạn lọc những âm vang từ cuộc đời dội đến. Sau này, khuynh hướng ấy thể hiện rõ nét hơn trong âm nhạc của ông:
Như Tử Kỳ nghe nhạc Bá Nha
Em nghe anh dạo khúc thu xa
Thuyền xuôi về bến mô thuyền hỉ
Sông trắng bờ xa lộ bóng nhà
Ngần ấy âm sắc sẽ ướp mãi trang thơ Văn Cao. Kết cấu “có hậu”: Sông trắng - bờ xa - lộ bóng nhà chính là sự phát triển tình cảm nhân đạo ông hằng nuôi dưỡng trong tâm hồn.
Một đêm đàn lạnh trên sông Huế
Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh
Dòng sông lạnh - tượng trưng cho dòng thời gian chảy mãi không ngừng và không bao giờ trở lại. Ngoại cảnh ở đây không xác định một vùng địa lý nào rõ rệt, cũng không ghi lại một khoảng thời gian nào đích xác. Khung cảnh con sông lạnh ở đây chỉ là giao tiếp giữa nội tâm và ngoại giới. Ngôn ngữ giao tiếp là tiếng đàn, một tiếng đàn ướt át, khi loang ra mặt nước, khi bay vút không trung, thi nhân ngậm ngùi cho những linh hồn cô đơn. Đặc biệt tình yêu mà Văn Cao thăng hoa, qua cảm hứng nghệ thuật thẩm mỹ của thi ca và âm nhạc, đã bày ra cái đẹp thuần túy của cõi nhớ, rất gợi cảm.
Đầu thế kỷ XX, lúc ấy nghệ thuật thơ là “kiến trúc” của ngôn ngữ: Đặt vào bối cảnh văn học “Một đêm đàn lạnh trên sông Huế” là biến cố, là cơn gió thông thoáng, một tư duy tươi thắm. Vì vậy về mặt khách quan, bài thơ Một đêm đàn lạnh trên sông Huế làm nên sự kiện mới. Đã ba phần tư thế kỷ, đến bây giờ, khi vào Google search, người viết bài này rất ngạc nhiên. Một đêm đàn lạnh trên sông Huế đạt 291.000 lượt tìm kiếm. Xuân Diệu với Lời kỹ nữ 303.000, Nguyệt cầm 245.000. Thế Lữ Nghe đàn nguyệt chỉ 163.000. Với Lời kỹ nữ, Nguyệt cầm, Xuân Diệu có thơ trong sách giáo khoa nên lượng người tìm đọc như thế cũng dễ hiểu, bằng không...
Sau ca khúc Buồn tàn thu đúng 1 năm (1939), thi phẩm Một đêm đàn lạnh trên sông Huế (1940) ra đời, cả hai đều là sáng tác đầu tay của Văn Cao, lúc ấy ông 16, 17 tuổi. Còn rất trẻ nhưng thơ - nhạc Văn Cao cô đọng, hàm súc, không tự sự. Ngôn ngữ lấp lánh ánh sáng tâm cảm và ngoại giới, trầm tư và huyền mộng. Hình ảnh chập chờn, như tiếng đàn đuổi bắt nhau. Ghi lại âm điệu đã chìm trong tiềm thức có gì khó bằng, Văn Cao quả là nghệ sĩ tài ba, trong lĩnh vực âm nhạc cũng như thi ca.
VŨ HÀO