Công tác duy trì sĩ số học sinh, huy động học sinh tới trường là việc làm thường xuyên, liên tục mà bản thân thầy - cũng như đồng nghiệp là những người có tâm huyết và hết lòng yêu thương học sinh - mới có thể làm tốt.
Theo thầy chia sẻ, công tác tại một ngôi trường với 98,9% học sinh là con em dân tộc thiểu số Jrai, thì việc giảng dạy cũng như duy trì sĩ số không thể làm theo phong trào mà cần xác định đó là sứ mệnh của bản thân, phải lấy yêu thương để nhân rộng yêu thương, phải từ tấm lòng đến với tấm lòng thì mới có thể có kết quả tốt.
1. Học tiếng bản địa (tiếng Jarai) để làm tốt công tác vận động học sinh dân tộc thiếu số bỏ học trở lại lớp
Xác định đối tượng giảng dạy trực tiếp của mình là học sinh dân tộc thiểu số Jrai chiếm tới 98,9% thì việc giao tiếp bằng tiếng bản địa hết sức quan trọng. Vấn đề đặt ra ở đây là nếu GVCN cũng không thể giao tiếp với phụ huynh và học sinh bằng tiếng bản địa thì kết quả giáo dục không đạt được hiệu quả như mong muốn, nếu không muốn nói là thất bại.
Vì vậy, thầy Dậu đã cố gắng mỗi ngày trau dồi học tiếng Jrai để mình có thể đủ giao tiếp với phụ huynh và học sinh trong mỗi lần “dân vận”. Trong quá trình tiếp xúc với phụ huynh, thầy nhận thấy rất rõ nếu mình nói bằng tiếng Việt thì họ rất rụt rè, e ngại.
Và, khi thầy giao tiếp bằng tiếng Jrai (trong phạm vi hiểu biết của bản thân) thì thật ngạc nhiên: họ rất chủ động giãi bày tâm tư, tình cảm, nỗi lòng, tin tưởng và gửi gắm GVCN. Thầy Dậu xác định, đây là một trong những giải pháp tối ưu. Từ đó, hiệu quả trong công tác vận động được nâng lên rõ rệt.
2. Tìm hiểu kĩ phong tục, tập quán, môi trường sống của học sinh góp phần nâng cao hiệu quả công tác vận động học sinh
Đối với tập thể học sinh nói chung, đối với học sinh đang ở trong tình trạng bỏ học nói riêng thì việc tìm hiểu kĩ phong tục, tập quán, môi trường sống của các em cũng trở nên cấp thiết. Bởi người dân tộc thiểu số có rất nhiều phong tục, lễ hội hay, có giá trị, đáng lưu giữ.
Tuy nhiên, có những phong tục trở thành hủ tục không còn phù hợp cần bài trừ càng sớm càng tốt. Những hủ tục ấy cũng là nguyên nhân dẫn đến việc các em bỏ học khó có thể quay trở lại theo học. Chẳng hạn tục “bắt chồng”. Nếu GVCN không nắm bắt kịp thời để có biện pháp chấn chỉnh và định hướng đúng đắn thì các em sẽ không có cơ hội tiếp tục theo học…
3. Nắm bắt tốt đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi của học sinh
Đa số học sinh trong lớp, do đặc điểm môi trường sống nên các em thường đi học trễ hơn so với độ tuổi từ 1 đến 2 tuổi. Do vậy, tâm sinh lí lứa tuổi của các em cũng khác so với học sinh được theo học đúng tuổi.
Các em thường có tâm lí thiếu tự tin, mặc cảm, lòng tự ái luôn cao hơn lòng tự trọng. Vì vậy, đối với những học sinh bỏ học, thầy Dậu không vì vị trí thi đua hay thành tích của lớp mà báo giảm sĩ số ngay. Thầy vẫn yêu cầu ban cán sự lớp báo vắng không phép.
Việc làm này nhằm tạo “cơ hội” cho những học sinh đã bỏ học muốn quay lại lớp không rơi vào tâm lí mặc cảm, tránh cho các em rơi vào suy nghĩ thầy đã “đẩy” mình ra khỏi lớp. Như vậy, vị trí thi đua của lớp trong thời gian đó có thể bị tụt hạng nghiêm trọng nhưng cơ hội tới trường của học sinh bỏ học sẽ trở nên rộng mở hơn.
4. Sử dụng Ban cán sự lớp, Ban chấp hành Chi đoàn một cách hiệu quả
Trong mỗi lần đi vận động học sinh trở lại học thì thầy Dậu luôn mời ban cán sự lớp cùng tham gia với mình. Thầy nhận thấy các em đã thể hiện được vai trò, vị trí của mình một cách đáng ghi nhận, tiếng nói của các em đã tác động sâu sắc tới nhận thức của bạn mình.
Từ đó, làm cho bạn “ngộ ra” ý nghĩa to lớn của việc học cũng như sứ mệnh cao cả của bản thân mà quay trở lại với trường với lớp, với thầy cô với bạn bè để tiếp tục theo đuổi cái chữ tới cùng.
5. Phối hợp với Ban đại diện cha mẹ học sinh
Thầy xác định một số cha mẹ học sinh đã trải qua rất nhiều những gian nan, vất vả của cuộc đời, những thiệt thòi khi không được học hành tới nơi tới chốn.
Và nhất là họ rất thấu hiểu lẽ đời, thấu hiểu cuộc sống, thấu hiểu con em mình. Vì thế họ dễ dàng đồng cảm, sẻ chia và khi tác động sẽ tìm được sự đồng thuận cao từ phía học sinh. Do vậy, kết quả vận động thêm phần khả quan rất lớn.
6. Kịp thời giúp đỡ học sinh bỏ học vì hoàn cảnh khó khăn
Những trường hợp này, thầy chủ động tìm hiểu, nắm bắt thông tin chủ trương, chính sách để hỗ trợ kịp thời. Ngoài ra, thầy kêu gọi sự hỗ trợ từ một số phụ huynh có khả năng để trang bị thêm cho các em về vật chất lẫn tinh thần để các em yên tâm khi quay lại học, không phải mặc cảm vì hoàn cảnh gia đình. Từ đó, các thành viên trong lớp trở nên gần gũi và quan tâm nhau hơn.
Đặc biệt, có trường hợp học sinh bỏ học do em là lao động chính trong gia đình, em phải thôi học để làm việc nhà. Với trường hợp cụ thể như vậy, thầy đã đứng ra kêu gọi các thành viên trong lớp đăng ký giúp bạn một ngày công lao động, đồng thời tuyên truyền để các em hiểu mục đích cũng như ý nghĩa của việc làm này.
Do vậy, mặc dù đang trong thời điểm thu hoạch chính vụ, các em vẫn sẵn sàng đăng ký đi giúp gia đình bạn rất đông. Và hiệu quả qua buổi lao động đầy ý nghĩa đó đã tạo cơ hội cho các em hiểu nhau hơn cũng như tạo động lực, niềm an ủi, niềm tin cho bạn quay lại theo học.
7. Vận động cựu học sinh đã trở thành đồng nghiệp hoặc cán bộ tại địa phương cùng tham gia công tác “dân vận”
Thầy Dậu xác định đây chính là lực lượng có ý nghĩa thiết thực trong quá trình vận động học sinh bỏ học. Các em chính là gương “người thật việc thật” trong quá trình “dân vận” để những học sinh đang bỏ học noi gương mà cố gắng vượt khó vươn lên, sớm trở lại lớp.
Chính các em đã góp phần truyền cảm hứng học tập cho những học sinh bỏ học lấy lại tinh thần để rồi tiếp tục quay lại theo học.
8. Phối hợp chặt chẽ với giáo viên bộ môn, Tổ chuyên môn, Đoàn thể, Ban giám hiệu
Việc phối hợp với giáo viên bộ môn là hết sức quan trọng. Trong quá trình vận động, các thầy cô sẽ nói thêm về lợi ích của việc học tập bộ môn để tạo thêm hứng thú cho các em. Từ đó, dễ dàng giúp các em nhận thấy ý nghĩa của việc học mà sớm quay trở lại lớp.
Đối với Ban giám hiệu, mặc dù quản lí chung rất nhiều việc, song trong một vài trường hợp cụ thể thầy vẫn mạnh dạn mời tham gia vận động cùng. Việc làm này không chỉ với mục đích chia sẻ, thấu hiểu với giáo viên, nhất là GVCN, mà quan trọng hơn, đại diện Ban giám hiệu thường là những người có khả năng giao tiếp tốt và nhất là có “uy” trước phụ huynh, trước nhân dân và học sinh. Vì vậy, khi có Ban giám hiệu cùng vận động thì hiệu quả vận động mang lại rõ rệt.
9. Thực hiện tốt, hiệu quả phong trào “Đôi bạn cùng tiến” do Đoàn trường phát động
Ngoài việc phải tìm hiểu kĩ lực học của từng em ngay từ đầu năm học, thầy Dậu lưu ý nhiều đến những em thuộc diện trung bình, yếu để phân công một em giỏi hoặc khá kèm những học sinh này và sắp xếp cho hai em ngồi cùng một bàn.
Thầy hướng dẫn cho em có học lực khá cách kèm bạn học, hướng dẫn bạn làm bài tập hoặc củng cố kiến thức mà bạn chưa hiểu… để ngăn chặn nguy cơ bỏ học của học sinh. Đồng thời, những học sinh đã từng bỏ học một thời gian quay trở lại học thì rất cần đến “đội ngũ” giúp sức từ phong trào này để các em không rơi vào tình trạng “tái” bỏ học.
Thường xuyên quan tâm và chỉ đạo cho các em được phân công giúp đỡ cần nâng cao tinh thần trách nhiệm để hỗ trợ tích cực cho những bạn quay lại học, vì những học sinh này đã bỏ một thời gian dễ có tâm lí chán nản, tự ti; đặc biệt, bị thiếu hụt kiến thức nghiêm trọng.
Do vậy, cần giúp đỡ để bạn hòa nhập tốt hơn cũng như bổ sung kiến thức kịp thời, tạo động lực cho bạn yên tâm trong quá trình tới lớp để bạn cùng mình tiến bộ.
10. Phối hợp với chính quyền địa phương, đặc biệt là trưởng thôn, già làng
Có những học sinh rơi vào hoàn cảnh đặc biệt, khi đã dùng tất cả các biện pháp trên mà không giải quyết được vấn đề thì thầy liên hệ với già làng, người có uy tín trong địa phương để nhờ những người này giúp đỡ, trao đổi với học sinh đó, gia đình em đó để họ hiểu hơn về việc mình đang làm, đồng thời để có được sự đồng thuận, giúp đỡ của địa phương.