Tựa đề của triển lãm “Khúc Lachrimae” lấy cảm hứng từ bản nhạc cùng tên được sáng tác bởi nhà soạn nhạc người Anh John Dowland - tên tuổi ông gắn liền với những khám phá âm nhạc lỗi lạc không kém phần phức tạp về nỗi sầu muộn.
Được biết đến qua tên gọi khác The Seven Tears (hay Bảy giọt nước mắt), bản nhạc gồm bảy khúc pavane khác nhau - một điệu nhảy rước lễ phổ biến thời Elizabeth, thường được dùng khi các cặp đôi đưa nhau tới trước lễ đường.
Trong mỗi vũ khúc pavane, John Dowland khắc họa những giai đoạn cảm xúc khác nhau của nước mắt, từ nỗi tuyệt vọng, tiếc thương, sợ hãi đến lòng trắc ẩn và niềm hy vọng. Nhà soạn nhạc đắm chìm trong nỗi sầu vương phản ánh tình trạng của thời đại mà ông đang sống.
Nỗi sầu muộn chi phối giai đoạn này không chỉ dừng lại ở phạm trù của biểu đạt chủ quan, mà là một ý niệm văn hóa mang trong nó sự đứt gãy và tương liên giữa bản ngã và thế giới, giữa tình cờ và siêu hình.
Khi hòa vào nhau, những chi tiết về âm nhạc và lịch sử của khúc Lachrimae gói gọn một cách tài tình tinh thần của triển lãm cá nhân lần thứ bảy của nghệ sĩ Hoàng Dương Cầm. Anh miệt mài tiếp tục những chất vấn và suy ngẫm cá nhân về khoảng cách, không gian ngưỡng, cũng như đường biên trơn trượt giữa sự phi lý và hiện thực.
Quá trình tìm tòi ý tưởng sáng tác của Hoàng Dương Cầm xoay quanh sự am tường cũng như diễn giải cá nhân về nghệ thuật, âm nhạc, lịch sử và văn học, rồi từ đó anh đi tìm những kẽ hở - những tham số dành cho khoảng cách và sự thân mật nằm trong các cấu trúc hoặc bố cục có sẵn.
Trong tác phẩm Rest Energy (1980), cặp đôi nghệ sĩ trình diễn trứ danh Marina Abramovic và Ulay cùng kéo căng một cái cung tên bằng sức nặng cơ thể họ, với mũi tên chĩa thẳng vào tim của Marina Abramovic.
Cùng lúc đó, có hai cái loa nhỏ được gắn trên ngực họ. Căng thẳng giữa họ - những người cùng đồng hành với nhau trong cả nghệ thuật lẫn đời sống, tăng dần đều cùng với tiếng đập trong tim mỗi người.
Về sau này, Abramovic mô tả lại trải nghiệm dù chỉ diễn ra trong vòng bốn phút mười giây, nhưng cảm như vô tận bởi lúc ấy bà không ở thế chủ động, vì thế chỉ có thể nương vào niềm tin của bà dành cho Ulay.
Hoàng Dương Cầm vẫn luôn thích thú với cách mà cặp đôi này sử dụng nghệ thuật trình diễn để truy vấn khoảng cách không gian lẫn tâm trí. Là một người thưởng nhạc nghiêm túc, Dương Cầm bị thu hút bởi cách một số thiên tài âm nhạc tìm thấy kẽ hở dù nhỏ trong nhạc cổ điển.
Đối với thế giới, nghệ sĩ vĩ cầm người Mỹ gốc Nhật Midori Gotō là một thần đồng âm nhạc, nhưng đối với Hoàng Dương Cầm - Midori Gotō là người đã có thể tháo dỡ và tái định hình nhạc cổ điện bằng chính những chuyển động cơ thể.
Một quan tâm khác của Hoàng Dương Cầm đó chính là cách mà các địa danh lịch sử trở thành nhân chứng cho những cuộc bể dâu di dân hàng loạt. Hàng thập kỷ sau chiến tranh chống Mỹ, những chiến trường ác liệt như Đồng Tháp Mười, Huế, Quảng Trị, Xuân Lộc giờ đây trở thành những khung cảnh khoác lên mình chiếc áo của thời bình và hiện đại.
Lùi về phía sau của những cảnh quan này, những gì còn sót lại của một thời đau đớn giờ chỉ còn lại là những ảnh chụp, phóng sự chiến tranh hoặc phim truyện Hollywood — trong một thời gian dài được xem như chứng cứ quan trọng trong việc phân tích những xung đột chính trị xã hội.
Trong nỗ lực thấu hiểu thực tế mà anh đang sống, Hoàng Dương Cầm tái hình dung lịch sử bằng cách đặt nhiều dòng thời gian, cảnh quan và dáng hình khác nhau cùng lúc cạnh bên như một thử nghiệm lắt léo.
Một cảm hứng khác len lỏi xuyên suốt loạt tranh lần này chính là truyện ngắn “Nắng trong Vườn” (1939) của nhà văn Thạch Lam - một chuyện tình của hai người trẻ với cái kết không viên mãn và đầy nuối tiếc.
Chính cái cách Thạch Lam ví sự trong sáng của cặp đôi và sự chia xa không thể nào tránh khỏi như sự trong trẻo và tự nhiên của ánh nắng óng ánh phủ khắp khu vườn nhỏ, đã hướng Hoàng Dương Cầm đến với một bảng màu được “đo ni đóng giày” rất kỹ lưỡng.
Việc phân tích một bức tranh trừu tượng bằng cách xác định giá trị của không gian dương bản (positive space) và không gian âm bản (negative space) là một thực hành phổ biến để giúp ta hiểu được các dáng hình và bố cục của bức tranh.
Không gian dương bản thường là nơi diễn ra các động tác sáng tạo, thể hiện thẩm mỹ của tranh, trong khi phần tương phản không gian âm lại bị coi là hậu cảnh ít quan trọng hơn.
Các tác phẩm của Hoàng Dương Cầm chứng minh điều ngược lại, rằng việc phân tách âm khỏi dương là điều không thể. Những tác phẩm của anh mời gọi người xem tiếp tục thay đổi góc nhìn để thấy được sự xa cách và sự gần gũi hay là những điều vẫn luôn ám ảnh người nghệ sĩ.