Miền đất lưu giữ nhiều giai thoại về khoa bảng xứ Bắc Hà

GD&TĐ - Làng Liên Bạt tên Nôm là Kẻ Bặt (nay thuộc Ứng Hoà – Hà Nội) không chỉ là đất phát khoa bảng mà còn là nơi lưu giữ những giai thoại về sự học.

Đình Ba Thôn xã Liên Bạt.
Đình Ba Thôn xã Liên Bạt.

Được ví như hòn ngọc quý của xứ Bắc Hà xưa, làng Liên Bạt tên Nôm là Kẻ Bặt (nay thuộc Ứng Hoà – Hà Nội) không chỉ là đất phát khoa bảng mà còn là nơi lưu giữ những giai thoại về sự học.

Theo tài liệu của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Liên Bạt gồm ba làng Bặt gộp lại gọi là “Kẻ Bặt”, nghĩa như “Bặt thiệp” - phong cách lịch sự, khéo léo. Cuối thời Lê đầu thời Nguyễn, xã Liên Bạt thuộc tổng Xà Cầu, huyện Sơn Minh, phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam Thượng. Ngày nay, xã Liên Bạt gồm các thôn: Vũ Nội, Vũ Ngoại, Lưu Khê, Lương Xá, Đình Tràng, Hoàng Xát, Trù, Đống, Trung.

Giai thoại mộ “hổ táng”

Liên Bạt từ xa xưa đã nổi tiếng là đất địa linh nhân kiệt. Theo văn bia ở Văn chỉ làng Liên Bạt Chùa thì vào thời Nguyễn, chỉ riêng làng này đã có 2 Hoàng giáp, 2 Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, 5 Cử nhân và 7 Tú tài. Ngoài ra, còn có 9 vị là giám sinh các thời.

Từ trước Công nguyên, Đặng Sỹ - Châu trưởng đất Giao Châu đã đến Liên Bạt mở trường dạy chữ, giáo hóa nhân dân. Từ đó, đất Liên Bạt đã có nhiều người đỗ đạt cao mang tài trí ra giúp đời, giúp nước và được ghi vào sử sách. Những người đỗ đạt của làng Liên Bạt Chùa tập trung vào 2 dòng họ Nguyễn và Bùi.

Về dòng họ Nguyễn theo gia phả, cụ thủy tổ dòng họ là Nguyễn Bá Đạt, hiệu là An Nhân, vốn gốc thôn Trù làng Bặt. Người cháu nội của cụ là Phúc Hải khi mất được táng tại Gò Sách. Gò này có hình con chim phượng ngậm cuốn sách, chỗ đặt mộ có hình ống quyển, vì thế nên con cháu sau này phát đạt nhờ đèn sách.

Còn giai thoại khác kể rằng, ông tổ của dòng họ có nhà gần núi Đọi Đình. Thế núi khác lạ, chia thành 5 bậc, cây cối xanh tốt quanh năm. Một hôm, ông tổ đi không về, con cháu lấy làm lạ bèn đi tìm. Đến nơi, người nhà thấy cụ bị hổ sát thương, nằm tại bậc thứ 3 của ngọn núi.

Con cháu chia nhau đi tìm hổ trả thù nhưng không thấy, khi quay lại thấy mối đùn lên, phủ khắp thi thể. Nghĩ đây là điềm lạ nên đắp đất thành nấm mồ ngay tại đó. Sau này, thầy phong thuỷ đến xem và cho rằng đây là ngôi mả “hổ táng”, nằm ở thế đất đẹp, nhờ đó mà con cháu đời sau hưởng lộc công danh, khoa cử.

Đến đời thứ 11 của chi Ất có Nguyễn Phiên (Nguyễn Thượng Phiên) đỗ đại khoa. Ông là con trai thứ hai của Tú tài Nguyễn Tụng. Lên 9 tuổi, Nguyễn Phiên được cha trực tiếp dạy chữ. Năm Đinh Mùi niên hiệu Thiệu Trị (1847), ông đỗ kỳ thi Hương tại Hà Nội, hạng thứ sáu. Năm sau (1848), được vào học ở Quốc Tử Giám.

Năm Ất Sửu đời vua Tự Đức (1865), ông dự kỳ thi Nhã sĩ - khoa thi đặc biệt lựa chọn người tài. Người dự thi không cứ đã đỗ Cử nhân, miễn là học rộng, tao nhã, có kiến thức. Khoa thi Nhã sĩ duy nhất này có 16 người dự, chỉ có 5 người được lấy đỗ, trong đó Nguyễn Phiên đỗ thứ hai (tương đương với Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, tức Hoàng giáp).

Vì đỗ cao, lại là thầy dạy vua nên Nguyễn Phiên được vua Thành Thái ban thêm chữ “Thượng” (có nghĩa là cao, chuộng) làm tên lót. Sau khi thi đỗ, Nguyễn Phiên đảm nhiệm nhiều chức quan khác nhau, chức cao nhất là Thượng thư bộ Hình rồi về trí sĩ năm 1898.

Chỉ tính riêng thời Nguyễn, làng Bặt đã có 2 Hoàng giáp, 2 Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, 5 Cử nhân và 7 Tú tài.

Chỉ tính riêng thời Nguyễn, làng Bặt đã có 2 Hoàng giáp, 2 Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, 5 Cử nhân và 7 Tú tài.

Người thứ hai là Nguyễn Thượng Hiền (1868 - 1925), là con của Hoàng giáp Nguyễn Thượng Phiên. Khoa thi Hương năm Giáp Thân (1884), Nguyễn Thượng Hiền đỗ Cử nhân, hàng thứ 39 tại trường thi Hà Nội - Nam Định. Năm sau (1885), Nguyễn Thượng Hiền dự kỳ thi Hội, trúng cách.

Vào thi Đình, ông đứng đầu về văn lý, nhưng chưa kịp truyền lô thì Kinh thành Huế có biến, nên kết quả thi bị hủy bỏ. Khoa Nhâm Thìn, niên hiệu Thành Thái (1892) ông lại dự thi, đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) nhưng không ra làm quan. Mãi đến năm Ất Mùi (1895), ông buộc phải ra làm quan, giữ chức Quốc sử quán Toản tu.

Năm 1908, ông tìm đường sang Quảng Châu (Trung Quốc) bắt liên lạc với Phan Bội Châu, Tăng Bạt Hổ. Đến khi các hoạt động cuối cùng của Việt Nam Quang phục hội thất bại (tháng 5/1916), trong tâm trạng bi quan, buồn chán, Nguyễn Thượng Hiền vào tu ở chùa Thương Tịch Quang, tỉnh Chiết Giang rồi mất tại đây vào ngày 13 tháng Giêng năm Ất Sửu (28/12/1925).

Trước Công nguyên, Đặng Sỹ - Châu trưởng đất Giao Châu đã đến Liên Bạt mở trường dạy chữ.

Trước Công nguyên, Đặng Sỹ - Châu trưởng đất Giao Châu đã đến Liên Bạt mở trường dạy chữ.

Họ Bùi hiển vinh

Về họ Bùi ở làng Bặt, theo gia phả lập lại vào năm Giáp Thân đời Bảo Đại (1944) thì họ này vốn gốc họ Nguyễn, đến đời cụ Thanh Hòa đổi thành họ Bùi (không rõ nguyên do), sống vào khoảng niên hiệu Long Khánh đời Trần Dụ Tông (1373 - 1377).

Họ Bùi gốc Nguyễn làng Bặt đến đời thứ 7 thì bắt đầu phát khoa với Bùi Châm (1675 - 1734) đỗ Sinh đồ khoa Ất Dậu (1705). Hai đời tiếp theo đều có người đỗ Sinh đồ là Bùi Bỉnh Di (con Bùi Châm, đỗ khoa Quý Hợi niên hiệu Cảnh Hưng, 1743) và Bùi Thuyên.

Đến đời thứ 11 mạch học lại được kế tiếp với Bùi Trí Trung (Tú tài khoa Tân Mão đời Minh Mạng, 1831) và lại kế tiếp ở hai đời sau (12, 13): Bùi Huy Cán (cháu gọi Bùi Chí Trung là chú ruột, Tú tài khoa Tân Sửu, đời Thiệu Trị (năm 1841) và Bùi Huy Toán (1835 - 1880, con Bùi Huy Cán), đỗ cùng khoa với cha.

Dòng họ Bùi làng Bặt đến đời Bùi Châm bắt đầu phân chi, chi thứ của Bỉnh Hành gọi là tiểu tông, có nhà thờ Dụ Đức đường. Đến đời thứ 10, chi Tiểu tôn này lại phân ngành, ngành trưởng vẫn giữ nhà thờ Dụ Đức đường; còn ngành thứ là Bùi Tới (hay Bùi Đình Nhuận, 1882 - 1951) có nhà thờ Thế Đức đường. Ngành này phát khoa rực rỡ với 2 Tiến sĩ và 2 Cử nhân, 2 Tú tài mà người mở đầu là Bùi Tuấn (đời thứ 11).

Bùi Tuấn (1808 - 1872) đỗ Sinh đồ khi mới 18 tuổi, sau đó lại đỗ Tú tài tại 3 khoa: Mậu Tý (1828), Tân Mão (1831) và Đinh Dậu (1837). Đến khoa Canh Tý (1840), ông đỗ Giải nguyên khoa thi Hương tại trường thi Hà Nội. Năm sau, ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân. Trong 31 năm, ông trải nhiều chức quan khác nhau, cao nhất là Quyền Tổng đốc Ninh - Thái, khi mất được tặng hàm Thái tử, Thiếu bảo.

Bùi Tuấn có 6 người con trai, trong đó chỉ có người con thứ sáu là Bùi Vi (1869 - 1919) đỗ đạt. Khi Bùi Tuấn mất thì Bùi Vi mới 3 tuổi, nhưng lớn lên vẫn gắng học tập và đỗ Cử nhân hạng thứ 17/42 khoa Canh Tý niên hiệu Thành Thái (năm 1900) tại trường Thừa Thiên, làm Giáo thụ phủ Bình Giang (Hải Dương).

Những người còn lại đều không đỗ đạt, song người con cả là Bùi Kiệm (1836 - 1873), sinh được 2 con trai, con trai cả là Bùi Hữu Nghiêm, 2 lần đỗ Tú tài dưới thời Thành Thái. Người con thứ hai là Bùi Tập, được tập ấm, làm quan đến Tuần phủ tỉnh Hưng Hóa, hàm Thị lang, sinh được 3 người con trai làm rạng danh họ Bùi.

Làng Bặt còn giữ được một số hệ thống bia đá văn chỉ rất có giá trị.

Làng Bặt còn giữ được một số hệ thống bia đá văn chỉ rất có giá trị.

Con cả là Bùi Bằng Phấn (1882 - 1949) là cháu nội Bùi Tuấn. Thuở nhỏ, ông cùng các em sống với bố ở Nam Định. Nhưng rồi, lần lượt bố và mẹ mất, ông cùng 5 em đều ở tuổi thơ ấu phải trở về quê, ăn học dưới mái nhà thờ Thiệu Đức đường, với sự giúp đỡ của người chú dượng là Thiếu bảo Dương Lâm - người làng Vân Đình cùng các chú bác trong gia tộc.

Đến năm Bính Ngọ đời Thành Thái, cả ba anh em cùng đi thi thì Bùi Bằng Phấn đỗ Tú tài, còn hai em là Bằng Thuận và Bằng Đoàn đều đỗ Cử nhân. Ba anh em đỗ cùng khoa là hiện tượng ít thấy khi đó. Về sau, Bùi Bằng Phấn nghĩ mình là con trưởng, phải có trách nhiệm trông nom nhà thờ, phần mộ tổ tiên nên ông ở nhà không đi thi tiếp.

Con thứ là Bùi Bằng Thuận (1883 - 1947) dự thi hai khoa chỉ đỗ thấp hoặc không đỗ. Đến khoa Bính Ngọ (1906) mới đỗ Cử nhân hạng thứ 7/50 tại trường thi Hà Nam (khoa này, anh ông là Bằng Phấn đỗ Tú tài, em là Bằng Đoàn đỗ Cử nhân).

Vào thi Đình không đạt. Tháng Ba năm Bính Thìn đời vua Khải Định (1916), dự kỳ thi Hội và đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, rồi làm quan đến Tuần phủ Bắc Giang, Tham tri.

Con thứ ba là Bùi Bằng Đoàn (1889 - 1955) đỗ Cử nhân hạng 47/50 cùng khoa với Tiến sĩ Bùi Bằng Thuận, làm quan đến Thượng thư bộ Hình. Sau khi Nhật đảo chính Pháp, Bùi Bằng Đoàn về quê ẩn dật. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, ông tham gia vào các hoạt động của tổ chức yêu nước ở Hà Nội rồi lên chiến khu Việt Bắc tham gia các hoạt động kháng chiến, làm Trưởng ban Thường vụ Quốc hội.

Sách “Quốc triều hương khoa lục” cũng như bia Văn chỉ còn chép làng Liên Bạt có Bùi Tấn Niên đỗ Cử nhân hạng 31/40 khoa Ất Mão đời vua Duy Tân (1915) tại trường thi Hà Nam khi còn rất trẻ (17 tuổi). Đây là khoa thi Hương cuối cùng của các tỉnh vùng Bắc Bộ.

Làng Bặt còn giữ bia đá văn chỉ rất có giá trị.

Làng Bặt còn giữ bia đá văn chỉ rất có giá trị.

Theo Viện Nghiên cứu Hán Nôm, trước đây cả ba làng Bặt đều có Văn chỉ để thờ Khổng Tử, các vị Tiên hiền, những người đỗ đạt trong dịp Xuân - Thu tế hàng năm. Đến nay chỉ còn Văn chỉ thôn Chùa, đặt ở cuối ngõ Khăm kề cận cánh đồng về phía Đông. Văn chỉ nhìn hướng Nam, phía đầu gồm 3 bệ thờ Đức Khổng Tử, bệ bên trái thờ thần linh thổ công, bệ bên phải thờ các vị tiên hiền qua các thời. Ở cửa ra vào có hai tấm bia: Văn chỉ bi ký và Trù thôn Văn từ bi ký.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ