Nguyễn Mậu Tuyên (1518 - 1599), người làng Thịnh Mỹ, huyện Lôi Dương, nay thuộc xã Thọ Diên (Thọ Xuân, Thanh Hóa). Ông được Phan Huy Chú đánh giá trong “Lịch triều hiến chương loại chí”, là: Học vấn rộng rãi, chín chắn, phẩm hạnh thuần hậu. Làm quan 40 năm, hết lòng với hoàng gia; giữ tiết kiên trinh, trải gian nan giúp nên bình định, dựng nên công lao sự nghiệp; làm khuôn phép cho trăm quan, đứng đầu danh thần thời Lê trung hưng.
Dòng dõi khai quốc công thần
Theo sử liệu và tài liệu dòng họ Nguyễn Mậu, Nguyễn Mậu Tuyên là hậu duệ đời thứ 5 của Thức quốc công Nguyễn Nhữ Lãm - khai quốc công thần nhà Lê sơ. Năm Mậu Tuất (1418) Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, Nguyễn Nhữ Lãm là một trong 50 người được phong chức đại tướng và thừa tướng, chia nhau đốc xuất đội quân Thiết đột đối địch với quân Minh.
Cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi, xét thưởng cho những người có công đóng góp cho cuộc kháng chiến, Nguyễn Nhữ Lãm trở thành một trong những bậc khai quốc công thần. Năm Tân Hợi (1431) ông làm Chánh sứ sang nhà Minh, với tài hùng biện, Nguyễn Nhữ Lãm buộc vua Minh phải công nhận vương triều Lê.
Sau chuyến đi sứ nhà Minh trở về, ông được vua Lê khen ngợi, ban cho chữ “Mậu” (nghĩa là cây cỏ tốt tươi, sự nghiệp thịnh vượng). Con cháu ông sau này đều mang họ Nguyễn Mậu.
Sinh ra trong gia tộc khai quốc công thần nên ngay từ nhỏ Nguyễn Mậu Tuyên đã được chỉ dạy nghiêm khắc, tư chất lại thông minh nên sớm nổi bật so với những người cùng lứa. Ông được đánh giá là người đủ tài đức, học vấn… có thể tham gia ứng thí đỗ đạt cao, từng thi trúng Tam trường.
Tuy nhiên, khi ấy nhà Mạc tiếm ngôi nhà Lê, những dòng tộc trung thành với nhà Lê đều không tránh khỏi bị họ Mạc triệt tiêu. Con cháu của Thức quốc công Nguyễn Nhữ Lãm cũng không tránh khỏi tai ương đó, nên dù khi đó (1527) Nguyễn Mậu Tuyên mới 9 tuổi đã phải bỏ trốn về quê mẹ ở thôn Thiên Tôn, năm 11 tuổi thì về quê cha.
Năm 1533, Nguyễn Kim lập Lê Trang Tông lên ngôi chống lại nhà Mạc. Năm 1545, Nguyễn Kim chết, con rể là Trịnh Kiểm lên thay. Năm Bính Ngọ (1546), Trịnh Kiểm cho lập hành điện vua Lê ở Vạn Lại (nay là xã Thuận Minh), đồng thời lấy Vạn Lại - Yên Trường xây dựng kinh đô, nhằm khẳng định quyền thống trị của vua Lê và nêu cao ngọn cờ phù Lê chống Mạc để quy tụ muôn dân.
Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” và “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” chép rằng: Thái sư Trịnh Kiểm cho rằng, lập quốc tất phải căn cứ vào nơi hiểm trở. Sách Vạn Lại, núi đứng sững, nước uốn quanh, thực đáng gọi là nơi hình thế đẹp. Đó là do trời đất xếp đặt để làm chỗ dấy nghiệp đế vương. Trịnh Kiểm bèn sai đào hào, đắp lũy, xây dựng hành điện, mời nhà vua đến đóng tại đó.
Một triều đình đầy đủ văn quan, võ tướng với sứ mệnh trung hưng nhà Lê đã được lập nên. Từ đây, đất nước hình thành 2 vương triều, 2 kinh đô, gồm Nam triều từ Thanh Hóa trở vào thuộc vua Lê; Bắc triều từ Ninh Bình đổ ra, bao gồm cả kinh thành Thăng Long (Đông Kinh) thuộc quyền họ Mạc.

Tham mưu thời loạn, dốc sức thời bình
Lúc này, Nguyễn Mậu Tuyên mới tìm đến gặp Trịnh Kiểm tự ứng cử, hiến sức. Trịnh Kiểm dùng Nguyễn Mậu Tuyên làm tham mưu. Ông giúp Trịnh Kiểm bày kế trong màn trướng, lập nhiều công lao.
Có giai thoại kể rằng, vua Lê Trung Tông sau khi qua đời không có con nối dõi, chúa Trịnh Kiểm tìm dòng dõi hoàng thân quốc thích nhà Lê nhưng không có ai, hoàng thân nhà Lê đều ở Bắc triều của nhà Mạc.
Lúc bấy giờ Nguyễn Mậu Tuyên đang ở Yên Trường. Vợ ông ở nhà, đêm nằm ngủ mộng thấy có người đến báo ngày mai sẽ có con cháu họ Lê tìm đến nhà. Tỉnh giấc, bà cho là điềm báo may mắn nên vội vàng sửa soạn nhà cửa để đón quý nhân.
Tuy nhiên, đợi mãi tới buổi trưa mới thấy một người đàn ông thoạt nhìn bề ngoài lam lũ, quần áo tả tơi vào xin ăn. Người lạ mặt trần tình, ông vốn là người buôn bán, nhưng vì gặp nạn sông nước mà gia tài mất hết. Nhìn kỹ lại người lạ mặt, vợ Nguyễn Mậu Tuyên thấy toát lên dáng vẻ sang quý, qua trò chuyện mới giật mình biết được đó là con cháu họ Lê.
Bà vội vàng cho người lên Yên Trường báo cho chồng biết. Sau khi xác minh, quả thực người đàn ông ăn xin đó là con cháu họ Lê là hậu duệ 5 đời của Lê Trừ - anh trai của Thái Tổ Lê Lợi. Trịnh Kiểm cùng văn võ bá quan đã cùng nhau làm lễ cáo yết trời đất và tôn người đó lên làm vua, hiệu là Lê Anh Tông.

Nguyễn Mậu Tuyên phò tá cho vua Anh Tông, được vua phong làm Hữu thị lang bộ Binh, tước Tường Lân bá. Ông được cả vua Lê và Trịnh Kiểm xem trọng. Năm 1570, Trịnh Kiểm mất, con trưởng là Trịnh Cối lên thay nắm giữ quân đội. Tuy nhiên, Trịnh Cối lại nhanh chóng sa vào tửu sắc không quan tâm quản lý việc quân, sự nghiệp trung hưng nhà Lê rất có thể bị dở dang trước nanh vuốt sắc bén đang thời thịnh thế của nhà Mạc.
Các tướng lĩnh như Lê Cập Đệ, Trịnh Vĩnh Thiên, Trịnh Bách, Phan Công Tích, Nguyễn Mậu Tuyên… ra sức ủng hộ con thứ là Trịnh Tùng. Cuộc mâu thuẫn, tranh giành quyền lực giữa hai anh em họ Trịnh bắt đầu. Trịnh Cối đưa quân tiến đánh Trịnh Tùng, nhưng Trịnh Tùng đã chuẩn bị trước nên thủ vững chắc khiến Trịnh Cối không thể làm gì, đành phải rút lui.
Mạc Kính Điển nhân cơ hội này liền đưa quân Nam tiến. Trịnh Cối bị kẹt giữa Trịnh Tùng và quân nhà Mạc, cuối cùng quyết định hàng nhà Mạc. Mạc Kính Điển đưa quân tấn công Trịnh Tùng. Trịnh Tùng đốc thúc quân phòng ngự, cuối cùng đẩy lui được quân nhà Mạc.
Đến năm 1572 xét phong thưởng, Nguyễn Mậu Tuyên được ban tước hầu. Năm 1593, Trịnh Tùng đánh đuổi được nhà Mạc ở Thăng Long, Nguyễn Mậu Tuyên phò tá vua về Thăng Long, được phong “Minh nghĩa hưng phụ công thần”, giữ chức Thượng thư bộ Lại. Năm sau (1594), vua sai ông mang sắc đi truy phong Thái sư Nguyễn Kim (đã mất năm 1545) tước Chiêu huân Tĩnh công.

Tuyển chọn hiền tài cho đất nước
Sau khi nhà Mạc bị đánh bật khỏi kinh đô Thăng Long, triều chính nhiều việc còn bộn bề. Trong tình thế đó, vua Lê đã tin tưởng trao cho Nguyễn Mậu Tuyên chức Tể tướng, trở thành vị Tể tướng đầu tiên của nhà Lê trung hưng. Ông ra sức điều hành chính sự đâu ra đấy, giúp vua Lê chúa Trịnh dần ổn định lại kinh thành Thăng Long.
Năm Ất Mùi (1595), triều đình nhà Lê mở khoa thi Hội tuyển chọn nhân tài giúp nước, dùng Nguyễn Mậu Tuyên làm Phó chánh Chủ khảo. Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa thi này do Bạt Quận công Thượng trụ quốc Dương Trí Trạch vâng sắc nhuận, Hàn lâm viện Hiệu lý Vinh Giang nam Nguyễn Văn Lễ vâng sắc soạn, nêu rõ: “Đến khi dẹp xong ngụy Mạc, khôi phục bờ cõi cũ, lại đem quân về kinh, trời Nam nhật nguyệt đôi vừng lại sáng.
Bấy giờ các sĩ tử về kinh thi Hội đông đến trên 3.000 người, qua bốn trường chọn hạng trúng cách ghi tên tâu lên. Hoàng thượng ra hiên điện đích thân ra đề hỏi về phương pháp trị nước. Đặc sai Đề điệu là Thái úy Đoan quốc công Nguyễn Hoàng, Tri Cống cử là Lại bộ Thượng thư Thiếu phó Quỳnh quận công Nguyễn Mậu Tuyên, Lễ bộ Tả Thị lang Hòa Lễ bá Ngô Tháo, Hộ bộ Hữu Thị lang Hồ Bỉnh Quốc chia giữ các việc. Đến khi dâng quyển lên đọc, Hoàng thượng đích thân xem xét, định thứ tự cao thấp. Ban cho bọn Nguyễn Thực 2 người đỗ Tiến sĩ xuất thân, bọn Nguyễn Đức Mậu 4 người đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân. Ơn vinh ban cấp theo thứ bậc, so với các khoa trước lại có phần đầy đủ long trọng hơn.
Vả trong khoa này những bậc hiền tài giúp nước trị dân như chim phượng múa hót đến chầu, sân triều rạng rỡ các giai sĩ dùng văn chương làm đẹp nước nhà, ra tay giúp đời lập công trạng lớn, phụ giúp tác thành sự nghiệp cao cả, khiến cho nước nhà vững yên như đặt trên bàn thạch”.

Với trách nhiệm quan trọng, Nguyễn Mậu Tuyên cẩn thận đọc kỹ từng quyển thi, không bỏ sót tài năng, từ đó chọn được 6 tiến sĩ chia ở hai hàng Đệ nhị giáp Tiến sĩ và Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, gồm: Nguyễn Thực, Nguyễn Nhật Tráng, Nguyễn Đức Mậu, Đặng Kính Chỉ, Nguyễn Danh Thế và Nguyễn Đức Trạch.
Trong đó người đỗ đầu – tức Đình nguyên Tiến sĩ Nguyễn Thực người Vân Điềm, huyện Đông Ngàn (nay là xã Vân Hà, Đông Anh - Hà Nội), người sau này trở thành trụ cột nhà Lê, được phong làm Tể tướng, được Phan Huy Chú nhận định “là người thuần hậu, trong sạch, cẩn thận, không lập sản nghiệp, làm quan trải qua nhiều chức vụ cao mà vẫn thanh bạch, có phong độ như bậc danh thần thời xưa”.
Với tấm lòng ngay thẳng, trung nghĩa, luôn đặt việc đất nước lên đầu, Nguyễn Mậu Tuyên được các đời vua Lê chúa Trịnh rất mực coi trọng. Cuối đời, ông được thăng giữ chức Thiếu phó, tước Quỳnh quận công. Năm 1599, Nguyễn Mậu Tuyên qua đời, thọ 82 tuổi. Triều đình truy tặng ông chức Thiếu sư, thụy là Trung Cẩn.
Theo gia phả dòng họ, sau khi Tể tướng Nguyễn Mậu Tuyên qua đời, vì có công trạng hiển hách nên triều đình đã sắc phong cho con cháu cùng dân làng lập đền thờ phụng rất uy nghi. Đáng tiếc vì nhiều nguyên nhân mà đền thờ không còn. Hiện tại, Tể tướng Nguyễn Mậu Tuyên được con cháu dòng họ phụng thờ tại đền thờ Thức quốc công Nguyễn Nhữ Lãm.
Tể tướng Nguyễn Mậu Tuyên có 3 người con trai và 4 con gái. Con trai trưởng thi trúng Tam trường, làm quan tới chức Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, Thái thường tự khanh, tước phong Lộc bá khi mất được ban tên thụy là Trung Chất. Con trai thứ tên húy là Tông, tên tự là Trạch. Con trai út tên húy là Thừa Sủng, thi đỗ Tam trường, làm quan tới chức Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, Tả thị lang Công bộ.
Dù đền thờ Tể tướng Nguyễn Mậu Tuyên không còn nhưng tại đền thờ Thức quốc công Nguyễn Nhữ Lãm hiện còn lưu giữ một số sắc phong do các triều đại phong kiến ban cho Nguyễn Mậu Tuyên. Hằng năm, vào ngày mùng 6 tháng Giêng, con cháu dòng họ Nguyễn Mậu tập trung tại đền thờ để tế lễ tưởng nhớ tiền nhân. Đồng thời, đó cũng là dịp để biết thêm những cống hiến của ông cha, học hỏi gương sáng tiền nhân về đạo học, đạo làm người, đạo làm quan cũng như góp sức cống hiến cho quê hương, đất nước.