Đất học Nho Lâm - rừng người khoa bảng

GD&TĐ - Nho Lâm là một trong những làng khoa bảng nức tiếng xứ Nghệ.

Đường làng Nho Lâm.
Đường làng Nho Lâm.

Với hàng trăm nhà khoa bảng, Nho Lâm xứng đáng ví như một rừng nhà Nho - hoặc một rừng các nhà khoa bảng.

Nho Lâm nay thuộc xã Diễn Thọ (Diễn Châu – Nghệ An), là một vùng đất không chỉ nổi tiếng với các giai thoại sự tích về tướng Cao Lỗ, mà còn là đất học gắn với tên tuổi Đình nguyên Hoàng giáp Đặng Văn Thụy, một trong các vị Tế tửu Quốc Tử Giám nổi tiếng triều Nguyễn.

Huyền tích Nho Lâm

Tượng tướng Cao Lỗ tại di tích nhà thờ họ Cao tại làng Nho Lâm.

Tượng tướng Cao Lỗ tại di tích nhà thờ họ Cao tại làng Nho Lâm.

Làng Nho Lâm nằm sát bên dòng sông Sắt, cũng là nơi có nghề rèn sắt lâu đời nhất nước ta. Làng có đền thờ tướng Cao Lỗ - ông tổ của nghề rèn sắt.

Theo TS Lại Văn Tới - Trung tâm Nghiên cứu Kinh thành, truyền thuyết nói về cuối đời của tướng quân Cao Lỗ khá trùng khớp: Cao Lỗ đã nhìn rõ quỷ kế của Triệu Đà khi cho Trọng Thủy sang kết giao và ở rể.

Ông đã dũng cảm can ngăn An Dương Vương nhưng nhà vua không những không nghe, mà còn bạc đãi Cao Lỗ. Ông đành phải rời bỏ triều đình. Trước khi đi, Cao Lỗ nói với An Dương Vương: “Giữ được nỏ thần thì giữ được nước, mất nỏ thần thì mất nước”. Nhưng sau đó Cao Lỗ đi đâu, làm gì thì lại có nhiều truyền thuyết khác nhau.

Có tích kể Cao Lỗ đi chu du thiên hạ, về đến vùng Diễn Châu, Nghệ An thấy có mỏ sắt nên dừng chân tại đây và dạy dân khai thác quặng sắt, lập lò rèn mở rộng canh tác ở vùng ven biển.

Thuyết khác lại nói, Cao Lỗ hay tin Triệu Đà tấn công Cổ Loa, đã quay về bảo vệ vua. Sức yếu, thân cô, cố sức xông pha trận mạc để mở đường thoát cho An Dương Vương, Cao Lỗ đã hi sinh ngay trên mảnh đất Cổ Loa.

Lại có tích khác cho rằng, khi An Dương Vương chạy về phía Nam tới vùng Diễn Châu, Cao Lỗ đi theo để bảo vệ vua. An Dương Vương chém Mỵ Châu rồi nhảy xuống biển ở Mộ Dạ. Cao Lỗ ở lại vùng này, thấy có quặng sắt nên lập lò rèn ở đây.

Theo sử làng Nho Lâm và gia phả một số dòng họ tại địa phương ghi rằng, làng Nho Lâm do ông Non tên là Cao Thiện Trí lập ra. Thủy tổ họ Cao chiêu tập dân đinh đến khai hoang và sinh sống ở xứ Thùng Thùng (Khe Rong, Lùm Ngấy), lấy tên là xã Thung Thanh, bao gồm cả làng Nho Lâm và Xuân Dương.

Sau này, hai bên Xuân Dương và Nho Lâm mâu thuẫn nên Xuân Dương tách ra lấy tên là Thanh Dương. Ông Non khai khẩn từ núi Mác ra đến núi Mã Yên, lập riêng một xã gọi là Tùng Lâm.

Tên gọi Tùng Lâm tồn tại đến đời Lê Trung Tông (1549 - 1556) phạm quốc húy Trịnh Tùng nên đổi thành Hoa Lâm. Đến đời vua Minh Mạng lại phạm quốc húy nên đổi thành Nho Lâm.

Theo gia phả họ Cao, khoảng năm 1360 ông Cao Thiện Trí trong khi đang làm ăn yên ổn, nhà vua đi tuần thú qua làng, quản tượng để voi phá nát hoa màu, Cao Thiện Trí huy động dân làng đánh chết voi của vua.

Nhà vua phạt vạ bằng cách đan một con voi tre to bằng voi thật, yêu cầu dân làng đổ đầy tiền thì được tha, nhưng huy động hết tiền trong dân cũng chỉ đủ đầy được 4 chân voi.

Vợ chồng ông Cao Thiện Trí và một số dân làng phải lánh nạn vào Non Hồ, Non Liễu của huyện Sa Nam (xã Nam Hoành, Nam Kim thuộc huyện Nam Đàn ngày nay). Một thời gian sau, khi nhà vua không còn truy cứu nữa, ông bà và người con trưởng lại trở về quê cũ làm ăn. Từ đây, dân làng thường gọi ông bà là ông Non, bà Non.

Một rừng nhà Nho

Văn bia hội sỹ hội Nho Lâm ghi chép tên tuổi các nhà khoa bảng làng Nho Lâm.

Văn bia hội sỹ hội Nho Lâm ghi chép tên tuổi các nhà khoa bảng làng Nho Lâm.

Theo thống kê, Nho Lâm trong thời phong kiến có đến 318 người đỗ đạt từ Tú tài trở lên. Trong đó, có một người đỗ Tiến sĩ, 4 người đỗ Tam trường và Phó bảng, 19 người đỗ Hương cống và Cử nhân, 294 người đỗ Hiệu sinh, Sinh đồ và Tú tài.

Hiện nay, làng Nho Lâm còn giữ được tấm bia đá cổ có tên “Bia văn hội sỹ hội Nho Lâm”. Trên tấm bia khắc rõ tên của hơn 300 người trong làng đỗ đạt dưới triều Nguyền và triều Lê.

Văn bia có đoạn: “Văn hiến xã ta có từ xưa. Đời Lê Vĩnh Hựu (1735 - 1740) đã chọn đất và làm đền ở đây. Các bậc tiền bối đã bỏ tiền ra mua và làm. Từ đó đến nay liên tiếp ghi tên những người đậu đạt, mở ra sự mong mỏi cho dân trong châu ta… khắc tên vào đá truyền lại về sau không bao giờ mất”.

Theo nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Đặng Ngọc Liễn (người Nho Lâm – PV), thì sổ “Văn hội xã Nho Lâm” ghi chép khá cẩn thận tên tuổi từng người đỗ đạt trong làng.

Trong đó có 1 vị đỗ đại khoa, 315 vị đỗ trung khoa. Đó là chưa kể hàng trăm người khác có học vấn uyên thâm, giỏi văn chương chữ nghĩa, làm thầy thuốc, thầy đồ không tham gia nghiệp lều chõng.

Ông Liễn cho rằng, tên làng Nho Lâm có nhiều cách hiểu nhưng hiểu nôm na là “rừng chữ nho”, hoặc “rừng nhà nho”. “Làng Nho Lâm có nhiều người đỗ đạt do sớm được tiếp cận hai nền văn hóa - văn hóa dân gian và văn hóa bác học.

Sự học ở Nho Lâm xưa gắn với công cuộc khuyến học - có học điền (ruộng học). Nhà nào có con em đỗ đạt sẽ được ưu tiên các mẫu ruộng tốt như mẫu đại khoa, trung khoa. Làng còn dành 9 mẫu công điền loại tốt nhất để lấy lợi thức tế thánh Khổng”, nhà nghiên cứu Đặng Ngọc Liễn chia sẻ.

Một số quan niệm dân gian ở Nho Lâm lại cho rằng, làng có nhiều người đỗ đạt bởi tụ linh khí ở Rú Ta. Rú Ta chính là núi Mã Yên, phía Tây có làng Bút Điền (thuộc xã Diễn Cát), lại ăn vào dãy ngàn Đại Vạc và nhìn ra lèn Hai Vai.

Quanh Rú Ta có ba cái giếng: Giếng Ráng, giếng Chùa và giếng Nhậu. Đặc biệt giếng Nhậu không bao giờ hết nước, và còn có tên là Nhũ Tuyền (Nhũ Tỉnh) - tức là sữa rồng.

Ở phía Bắc Rú Ta có đền thờ Đức thánh đệ nhị với huyền tích ông lão ở Sơn Đầu (thuộc Nho Lâm) làm nghề đơm tôm ở rào Anh Kiệt (dưới chân núi Mã Yên). Một buổi sáng ông ra thăm đó thì thấy một cây gỗ trầm ở đâu trôi đến, có mùi rất thơm.

Trên thân cây gỗ có dòng chữ Hán: “Ngã nãi thượng đế chi tử. Quá thử kiến nhữ sơn kỳ thủy trí, ái nhi lập chi, nhữ đẳng đăng lập từ phụng ngã”. Nghĩa là: “Ta là con của thượng đế, qua đây thấy cảnh núi sông tươi đẹp của các người, yêu mến mà dừng lại. Các người nên lập đền thờ ta”.

Ông già cho là mình đã có phúc lớn gặp được thần linh. Tuân theo lời thần, khiêng đá xây một bàn thờ trên bờ kênh, thần rất linh thiêng cầu gì được nấy. Sau này, dân trong làng lập đền thờ trên núi để thờ tự nghiêm cẩn, gọi là đền Trầm Hương.

Nhà vua (không rõ thời nào) có sắc phong “Thái sơn uy linh, hiền đức cương nghị, chư tôn mĩ tự, thượng đẳng tôn thần”. Còn bến sông nơi có cây gỗ ứng báo cũng được gọi là bến Trầm Hương.

Người mang thiên kinh vạn quyển

Đình nguyên Hoàng giáp Đặng Văn Thụy mất năm 1936. Nhiều nhà nho nổi tiếng, như Phan Bội Châu đã đến phúng điếu. Huỳnh Thúc Kháng - bạn đồng niên có câu đối: Đương niên đồng thí Đường cung, nhất khúc nghê thường, thiên thượng chúng tiên suy tuyết xướng/ Tha nhật hậu thông Chu đạo, tam trùng trữ dịch, quốc trung hoàng cẩu thiếu tư nhân (Đường cung thuở ấy cùng thi, một khúc nghê thường, tiên nữ trên trời suy tôn tuyết xướng/ Chu đạo ngày nào thông hảo, ba tầng trạm dịch, người già trong nước ít kẻ bằng ông).

Trong các nhà khoa bảng Nho Lâm, nổi tiếng nhất là Đình nguyên Hoàng giáp Đặng Văn Thụy - được dân yêu mến gọi là “cụ Hoàng”. Ông sinh năm 1858, có cha là ông đồ từng thi đỗ Tú tài.

Lúc nhỏ, Đặng Văn Thụy học với cha. Khoa thi Hương năm 1878 ông cùng cha đi thi (cùng Cao Xuân Dục), ông trượt, còn cha ông đỗ Tú tài và Cao Xuân Dục đỗ Cử nhân.

Cao Xuân Dục cảm mến tài năng của Đặng Văn Thụy nên đã giúp ông ăn học và gả con gái là bà Cao Thị Bích. Chuyện tình của Đặng Văn Thụy cũng đã thành giai thoại “Thượng thư kén rể”, rằng Thụy ăn khỏe khác thường khiến cả nhà Cao Xuân Dục khiếp vía.

Người nhà cho rằng, Đặng Văn Thụy vai u thịt bắp (vốn làm nghề rèn) khó thành việc lớn. Ngược lại, Cao Xuân Dục lại quả quyết “người không bình thường mới làm được những việc khác thường”.

Khoa thi Hương 1882, Đặng Văn Thụy đỗ Cử nhân, được bổ làm Huấn đạo Nông Cống (Thanh Hóa) rồi Giáo thụ phủ Diễn Châu. Khoa thi năm 1904, ông đỗ Đình nguyên Hoàng giáp, cùng khoa thi với Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng. Ông được vời về triều nhậm chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám, sung Tư thư cục. Năm 1908, ông được thăng chức Tế tửu Quốc Tử Giám.

Làng Nho Lâm bên dòng sông Sắt

Làng Nho Lâm bên dòng sông Sắt

Đặng Văn Thụy là một nhà Nho uyên thâm, được thầy là Thám hoa Nguyễn Đức Đạt đánh giá cao. Huỳnh Thúc Kháng cũng ca ngợi ông: “Thanh trường vạn quyển ủng tha nga” (Trong bụng có hàng vạn cuốn sách, thật là lớn lao).

Hoàng giáp Đặng Văn Thụy có với bà Cao Thị Bích đến 11 người con (7 trai, 4 gái). Trong đó, nổi tiếng có Phó bảng Đặng Văn - Thị lang Công bộ, Tham tri Hình bộ, Phó bảng Đặng Văn Oánh - Giáo thụ An Nhân.

Ông cũng để lại 11 đầu sách quý, trong đó 4 cuốn viết về giáo dục học. Một số tác phẩm có thể kể đến, như: Nho lão cuồng ngâm, Mộng Long tuyết mộng sử, Mã sơn văn thảo, Quốc Tử Giám hương ca, Nữ học diễn ca, Bát phản ca, Gia huấn ca…

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ