Tất cả suy nghĩ và kết quả được học sinh mô tả lại bằng chữ viết, lời nói, hình vẽ.
Cô Nguyễn Thị Ly - Giáo viên Trường tiểu học Nguyên Hòa (Phù Cừ, Hưng Yên), chia sẻ kinh nghiệm để thực hành hiệu quả phương pháp này trong dạy học, đặc biệt với môn Khoa học ở tiểu học.
Một số nguyên tắc khi sử dụng phương pháp Bàn tay nặn bột
Theo cô Nguyễn Thị Ly, để sử dụng phương pháp Bàn tay nặn bột thực sự có hiệu quả, đòi hỏi giáo viên và học sinh cần tuân thủ theo các nguyên tắc sau:
Các em cần được quan sát một số sự vật, hiện tượng của thế giới thực tại, gần gũi, dễ cảm nhận và tiến hành thực nghiệm về chúng.
Trong quá trình học tập, các em tự lập luận và đưa ra các lý lẽ, thảo luận những ý nghĩ và các kết quả đạt được trên cơ sở xây dựng kiến thức cho mình. Một hoạt động mà hoàn toàn chỉ dựa trên sách vở là không đủ.
Các hoạt động giáo viên đề ra cho học sinh được tổ chức trong các giờ học nhằm đến một sự tiến bộ trong học tập. Các hoạt động này gắn với chương trình và dành phần lớn quyền tự chủ cho học sinh.
Mỗi học sinh có một quyển vở ghi chép thí nghiệm và các em trình bày trong đó bằng ngôn ngữ của riêng mình.
Mục tiêu chính là sự chiếm lĩnh dần dần các khái niệm khoa học và kĩ thuật được thực hành, kèm theo sự vững vàng trong diễn đạt nói và viết.
Cô Nguyễn Thị Ly cho biết, dạy học theo phương pháp Bàn tay năn bột, học sinh có thể tiến hành những nghiên cứu dẫn đến sự hiểu biết.
Nhưng các em cần được hướng dẫn và giúp đỡ bởi các câu hỏi của thầy giáo và hoạt động trong khuôn khổ một đề tài đã được xây dựng chứ không phải chỉ lựa chọn theo các “cơ hội”.
Trong quá trình nghiên cứu, học sinh phải sử dụng tất cả các giác quan để tìm ra tri thức mới. Các em cần có vở ghi chép cá nhân để ghi lại những ý tưởng của mình, những điều đã được sửa chữa lại, cho phép giữ lại vết tích của những thử nghiệm liên tiếp, đánh dấu được tiến trình nghiên cứu.
Vở ghi chép được học sinh giữ suốt trong thời gian học tiểu học và cuối cấp học sẽ hình thành một tập vở ghi nhớ đặc biệt.
Dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột” không đòi hỏi phải sử dụng những dụng cụ thí nghiệm phức tạp, hiện đại, đắt tiền mà đa số dễ kiếm và dễ sử dụng, không nặng nề.
Các thao tác trên những dụng cụ thí nghiệm cũng hết sức đơn giản và không cần có hiểu biết kĩ thuật gì đặc biệt. Các em có thể thử nghiệm nhu cầu của cây trồng bằng cách thay đổi các thông số: Đất, nước, ánh sáng, nhiệt độ, không khí, bằng cách so sánh và phân tích kết quả thực nghiệm.
Từ đó, phát hiện ra rằng: Chỉ cần thay đổi mỗi lần một thông số là có thể có những kết luận khác nhau.
Và trong quá trình ấy, học sinh sẽ đặt ra những câu hỏi thắc mắc: Tại sao có những loại cây sống bám trên cây khác mà không cần đến yếu tố đất? Tại sao sự nảy mầm không chỉ xảy ra trong đất mà còn cả trên nhựa, tờ giấy?... Như vậy trong hạt có gì? Cây trồng có ăn đất không? Tại sao lại bón phân cho cây?....
Lưu ý sử dụng Bàn tay nặn bột trong môn Khoa học
Cô Nguyễn Thị Ly lưu ý, trong quá trình học sinh thực hành, giáo viên phải khéo léo theo dõi, quan sát học sinh xem các em đang nghĩ gì về vấn đề mà mình đặt ra để nắm được tình hình. Nếu có điều gì không khớp với dự định ban đầu thì cần phải có sự điều chỉnh cho phù hợp.
Các biểu tượng học sinh đưa ra có thể đúng, có thể sai nhưng giáo viên không đánh giá và cũng không đưa ra câu trả lời. Giáo viên chỉ gợi ý hay đặt thêm những câu hỏi dẫn dắt học sinh đi tìm câu trả lời cho câu hỏi của chính các em chứ không làm thay.
Ví dụ: Theo em, nó sẽ như thế nào? Em nghĩ (làm) thử xem? Em tìm cách làm nào đó để xem có đúng không?...
Hoặc, khi học sinh lọc nước mà kết quả vẫn đục, giáo viên chỉ gợi ý: Các em thử xem thiết bị thí nghiệm có vấn đề gì không? Xem lại các bước tiến hành lọc nước của các em...
Trong trường hợp thí nghiệm cần đến các điều kiện, giáo viên phải giúp học sinh xác định được điều kiện của thí nghiệm, ví dụ: Về mặt thời gian, môi trường, nhiệt độ...
Bước đầu, học sinh có thể gặp khó khăn nhưng thực hiện nhiều lần các em sẽ quen dần trong việc đặt điều kiện cho thí nghiệm để đảm bảo độ chính xác cao.
Cô Nguyễn Thị Ly cũng cho rằng, đối với phương pháp Bàn tay nặn bột nếu chỉ dừng lại ở việc đánh giá bằng điểm số thì chưa đủ mà cần phải phối hợp đánh giá về năng lực quan sát, năng lực tư duy, khả năng suy luận và phán đoán, kỹ năng làm thí nghiệm, cách sử dụng ngôn ngữ để biểu đạt (kể cả trong khi nói và viết), sự hứng thú tìm tòi, sự tò mò ham hiểu biết, sự tham gia tích cực trong giờ học...
Tất cả những điều đó nhằm kích thích, lôi kéo các em khám phá thế giới không ngừng, tạo ra sự cân đối ở các em giữa kiến thức và kỹ năng, giữa lý thuyết và thực hành.
Bên cạnh đó, không chia nhóm học sinh quá đông, mỗi nhóm chỉ từ 2, 4 đến 6 em và từ hai bàn ghép lại.
Không nên cho học sinh biết trước kiến thức của bài học một cách tiêu cực mà phải để cho các em tự khám phá ra chúng.
Không để các em sử dụng sách giáo khoa để trả lời câu hỏi mà giáo viên đưa ra vì như vậy sẽ làm cho học sinh có thói quen ỷ lại không chịu suy nghĩ, tìm tòi trong học tập.
Sách giáo khoa có thể chỉ được sử dụng làm tài liệu quy chiếu với các kết quả nghiên cứu của học sinh ở cuối tiết học.
Không nêu tên bài học trước khi học (với những bài thể hiện nội dung bài học ở đề bài).
Lựa chọn hoạt động phù hợp với phương pháp Bàn tay nặn bột để áp dụng, không nhất thiết hoạt động nào cũng áp dụng phương pháp này.
Đề xuất quy trình dạy học môn Khoa học ở tểu học với Bàn tay nặn bột
Cô Nguyễn Thị Ly đề xuất quy trình dạy học môn Khoa học ở tểu học bằng phương pháp Bàn tay nặn bột với 4 bước.
Bước 1: Giao nhiệm vụ. Giáo viên chia lớp thành các nhóm, thường thì mỗi nhóm có 2, 4 hoặc 6 học sinh; sau đó, giao nhiệm vụ cho các nhóm; phát cho từng nhóm những phương tiện cần thiết để làm thí nghiệm; làm thực nghiệm khoa học theo yêu cầu; quan sát hiện tượng xảy ra rồi ghi chép lại; giải thích hiện tượng và rút ra kết luận khoa học .
Bước 2: Học sinh thực hiện nhiệm vụ. Ở bước này, học sinh thảo luận đề xuất các phương án giải quyết; sau đó, lần lượt thử các phương án đề xuất. Trong trường hợp thành công, các em ghi lại diễn biến của thí nghiệm vào sổ. Học sinh tập giải thích hiện tượng và rút ra kết luận khoa học (đây chính là tri thức khoa học mà học sinh tìm ra).
Bước 3: Trình bày kết quả. Một nhóm học sinh trình bày kết quả thí nghiệm trước lớp. Các nhóm khác đặt câu hỏi mà nhóm mình quan tâm thắc mắc. Các nhóm khác có thể tiếp tục làm thí nghiệm nếu có cách giải quyết khác.
Bước 4: Tổng kết, đánh giá: Giáo viên kết luận, khẳng định kết quả thí nghiệm đúng và kết luận khoa học tương ứng mà học sinh phát hiện.