Chuyện thú vị về các Bảng nhãn Việt Nam - Kỳ 5: Người thầy mẫu mực và 14 sách lược trị nước

GD&TĐ - Bảng nhãn Lương Đắc Bằng không chỉ nổi tiếng là một thanh quan, mà còn là người thầy mẫu mực.

Đền thờ Lương Đắc Bằng tại Hoằng Hoá.
Đền thờ Lương Đắc Bằng tại Hoằng Hoá.

Trị bình thập tứ sách - 14 sách lược trị nước mà ông đưa ra, dù không được vua áp dụng nhưng để lại tiếng thơm son sắt muôn đời.

Lương Đắc Bằng (sinh năm 1472) tên thật là Lương Ngạn Ích, người làng Hội Triều, xã Trào Âm, tổng Bái Trạch (nay thuộc xã Hoằng Phong, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hoá). Ông là con của thầy đồ Lương Hay, từng đỗ giải nguyên ở kỳ thi hương, mẹ là bà Lê Thị Sử dòng dõi khoa bảng. Được cha mẹ dạy dỗ từ rất sớm nên từ nhỏ đã học chữ rất giỏi, nổi tiếng thần đồng.

Nhường danh hiệu Trạng nguyên

Năm ông 12 tuổi thì cha qua đời. Theo lời dặn, ông tìm đến người học trò của cha mình là Trạng Lường Lương Thế Vinh để theo học. Trạng nguyên Lương Thế Vinh dốc sức dạy dỗ nên Lương Đắc Bằng tiến bộ rất nhanh. Năm 1495, ông đỗ đầu trong kỳ thi hương rồi vào thi hội được xếp trong danh danh 55 người trúng cách.

Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” chép lại sự kiện này: “Ngày mồng 9, thi Điện. Đầu bài văn sách hỏi về nhân tài và vương chính... Cho Đỗ Lý Khiêm, Lương Đắc Bằng, Nguyễn Khắc Kiệm, ba người đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ... Mùa đông, tháng 10, ngày mồng 7, tuyên triệu bọn tiến sĩ Đỗ Lý Khiêm vào làm bài ứng chế, vua sai làm bài ký Ngũ vương tướng. Lương Đắc Bằng được hạng ưu...”.

Theo “Những người thầy trong sử Việt”, do ngụ ý của hoàng hậu, danh hiệu Trạng nguyên nên để cho Lý Khiêm vì người này đang giữ chức quan trọng trong triều đình, lại nhiều tuổi. “Ích vui vẻ nhường nhịn, do vậy ông chỉ là Bảng nhãn. Vua Lê Hiến Tông rất đẹp lòng, đổi tên cho Ích thành Đắc Bằng và ông mang tên này từ đó. Vua còn ngự chế tặng hai vị tiến sĩ đệ nhất giáp hai bài thơ mừng”.

Sau khi đoạt danh hiệu Bảng nhãn, Lương Đắc Bằng được nhận chức Tả thị lang bộ Lại, Đông các Đại học sĩ. Khi đường công danh phát đạt đỉnh cao là lúc ông được triều đình phong chức Thượng thư Bộ lại, tước Đôn Trung Bá.

Trong thời gian làm quan tại triều, Lương Đắc Bằng là một người liêm khiết đem hết khả năng tài trí phục vụ triều đình và dân chúng. Ông tham gia làm quan trải bốn triều vua thời hậu Lê: Hiến Tông, Túc Tông, Uy Mục và Tương Dực.

Trong thời gian tham gia triều chính, ông có dâng lên vua một kế sách trị nước gồm 14 điều mà sử sách xưa thường gọi là Trị bình thập tứ sách. Vốn là một vị đại thần thanh liêm, thẳng thắn lại rất mực trung thành nên những Nho sĩ có tiếng thời ấy như Lê Tung, Lê Nại, Nguyễn Trực... đều rất nể trọng ông.

Sau khi Vua Hiến Tông ở ngôi 8 năm rồi mất, Túc Tông lên ngôi lại băng hà sau đó chưa đầy một năm. Uy Mục lên ngôi vào năm 1505. Vua hiếu sắc, hoang dâm lại nghiện rượu, tàn hại người tông thất, ngầm hại tổ mẫu vì oán hận người không ủng hộ việc nối ngôi của mình, làm trăm họ đều căm ghét.

Phế lập hôn quân.

Phế lập hôn quân.

Trước tình cảnh quá rối ren, tháng 11 năm 1509, Lương Đắc Bằng theo Nguyễn Văn Lang phò tá Giản Tu công Lê Oanh và viết “Hịch dụ đại thần bách quan”, tố cáo và kêu gọi mọi người khởi binh đánh vua Lê Uy Mục. Hịch văn xót xa, căm phẫn:

“Bạo chúa Lê Tuấn, phận con thứ hèn kém, làm nhơ bẩn nghiệp lớn, lần lữa mới gần 5 năm mà tội ác đã đủ muôn khoé. Giết hại người cốt nhục, dìm hãm các thần liêu. Bọn ngoại thích được tin dùng mà phường đuôi chó ngang ngược làm bậy, người cứng cỏi bị ruồng bỏ mà kẻ đầu cá ẩn nấp nẻo xa.

Quan tước đã hết rồi vẫn thưởng tràn không ngớt, dân chúng đã cùng khốn còn vơ vét chẳng thôi. Vét thuế khoá từng cân lạng, tiêu tiền của như đất bùn, bạo ngược ngang với Tần Chính. Đãi bề tôi như chó ngựa, coi dân chúng tựa cỏ rác ngạo mạn quá cả Ngụy Oanh.

Huống chi lại xây cung thất to, làm vườn hoa rộng. Xua dân đi trồng cây, giẫm theo vết xe đổ chất gò Hoa Cương đời Tống; lấp biển xây cung điện, nối gót thói u mê xây cung A Phòng nhà Tần. Công trình thổ mộc xây lên rồi thay đổi, thay đổi rồi xây lên, dân Hải Dương, Kinh Bắc mệt mỏi, lao đao; tông thất xa hoa, kiêu căng lại ngang ngược, ngang ngược lại kiêu căng, cõi tứ tuyên phiên trấn xôn xao, rối loạn. Cư dân nhức óc, cả nước đau lòng”.

Lê Uy Mục bị giết, Lê Oanh lên ngôi, Lương Đắc Bằng tưởng lập được minh quân nên dâng kế trị bình. Ông dẫn tích xưa: “Bậc thánh nhân thuở trước, không vì thiên hạ đã trị mà lơ là việc cảnh giác ngăn ngừa, người hiền thần đời xưa không vì vua mình đã thánh mà quên lãng niềm khuyên răn, can gián” để khẳng định: “Đế Thuấn nghe lời khuyên mà răn ngừa những việc đáng răn, do đó đã trở thành bậc đại thánh… Văn Đế nghe lời khuyên mà lo nghĩ việc đáng lo, do đó đã trở nên bậc hiền nhân”.

Theo Lương Đắc Bằng, kể từ khi Lê Tương Dực lên ngôi, “hoà khí chưa thuận, can qua chưa dứt, kỷ cương triều đình chưa dựng đặt, việc quân, việc nước chưa sửa sang; tai dị xảy ra luôn, sợ đạo trời chưa thuận, núi đá bị sụt lở, e đạo đất chưa yên”. Trước thực tế đó, ông “mỗi khi nghĩ tới việc ngày nay thì suốt đêm không ngủ, đến bữa không ăn, tấm lòng khuyển mã trung thành không sao nguôi được”.

Lương Đắc Bằng hiến 14 sách lược trị bình (ảnh minh hoạ).

Lương Đắc Bằng hiến 14 sách lược trị bình (ảnh minh hoạ).

Trị bình thập tứ sách

Năm 1510, vua Tương Dực phong thưởng cho các công thần, Lương Đắc Bằng được thăng làm Lại bộ Tả thị lang. Năm ấy vua khởi phục Lại bộ Tả thị lang Lương Đắc Bằng kiêm Đông các học sĩ, nhập thị kinh diên nhưng Đắc Bằng cố từ chối không nhận. Nhân đó, ông dâng lên 14 kế sách trị bình.

“1- Hết sức cảnh giới để dẹp điềm tai dị. 2- Hết lòng hiếu thảo để tỏ lòng trung. 3- Xa thanh sắc để làm gốc cho sự chính tâm.

4- Bỏ kẻ tà nịnh để trọng nguồn phong hóa. 5- Dè dặt việc cho quan tước để cẩn thận về việc khuyến trừng. 6- Tuyển bổ công bằng để đường làm quan được trong sạch. 7- Tiêu dùng phải dè dặt để giữ thói kiệm ước. 8- Khen người cho những người có tiết nghĩa để trọng đạo cương thường. 9- Cấm hối lộ để bỏ thói gian tham. 10- Sửa sang võ bị để thế nước được vững.

11- Kén chọn gián quan để cho người dám nói phấn khởi.

12- Bớt việc phục dịch để thỏa tình dân trông ngóng. 13- Hiệu lệnh phải nhất định để thống nhất lòng bốn phương. 14- Cẩn thận pháp độ để mở đường thịnh trị”.

Ai ngờ vua dần sa vào vết xe đổ nên không nghe theo những lời can gián. Nhân dân oán thán, gọi vua là vua lợn. Tuy vua khen ngợi những điều chí lý nhưng không áp dụng.

Năm 1517 đời vua Chiêu Tông, Lương Đắc Bằng từ quan về quê để chăm lo dạy học. Từ một trọng thần, Lương Đắc Bằng không quyến luyến vinh hoa chuyển sang làm một người thầy cơ hàn.

Khu lăng mộ và đền thờ Lương Đắc Bằng là Di tích văn hoá – lịch sử cấp quốc gia.

Khu lăng mộ và đền thờ Lương Đắc Bằng là Di tích văn hoá – lịch sử cấp quốc gia.

Người thầy mẫu mực

GS sử học Lê Văn Lan trong Hội thảo về Bảng nhãn Lương Đắc Bằng nhận định: Tuy kế sách của Lương Đắc Bằng không được áp dụng, nhưng lịch sử luôn ghi nhận ông là một nhà cải cách xuất sắc. Những đề xuất của Lương Đắc Bằng ngày nay vẫn mang tính thời sự và giá trị.

Học trò ông nhiều người đỗ đạt cao, như: Nguyễn Bỉnh Khiêm đỗ Trạng nguyên, Đinh Bạt Tụy ở Nghệ An đỗ tiến sĩ, Nguyễn Mẫu Đối đỗ Bảng nhãn, Nguyễn Thừa Hưu đỗ tiến sĩ, Lại Kim Bảng sau đỗ Hoàng giáp...

Ngoài việc dạy dỗ học trò về tri thức, Lương Đắc Bằng đặc biệt quan tâm việc truyền thụ đạo lý, hun đúc chí hướng nhân tài để giúp nước, giúp đời.

Cuộc đời làm quan của mình, Lương Đắc Bằng luôn giữ mình trong sạch, ông chỉ có năm gian nhà gỗ lợp kè vừa làm buồng ở, vừa thờ gia tiên vừa làm nơi tiếp khách. Bản thân ông vất vả hiếm muộn đường con cái, khi người thiếp có mang ba tháng thì ông đã ngã bệnh rồi qua đời.

Trước lúc lâm chung ông đã dặn lại người vợ sau này nếu sinh con trai, hãy đặt tên con là Lương Hữu Khánh và đem con đến gửi Nguyễn Bỉnh Khiêm là học trò cũ của ông dạy dỗ, có vậy mới mong nối được chí hướng.

Sau khi ông qua đời, học trò về chịu tang rất đông. Riêng Nguyễn Bỉnh Khiêm về làng Hội Triều dựng nhà ở chịu tang thầy ba năm mới rồi mới hồi hương.

Sau khi ông mất được 6 tháng, người thiếp sinh ra con trai theo lời ông bà đặt tên con là Lương Hữu Khánh. Sau này, Lương Hữu Khánh đã tìm đến thầy Nguyễn Bỉnh Khiêm theo học như lời cha dặn và thi đỗ tiến sĩ thời Lê - Trịnh được thăng đến Lại bộ Thượng thư.

Trong lịch sử nước nhà Bảng nhãn Lương Đắc Bằng không chỉ được biết đến là một người quan thanh liêm, chính trực mà còn được tri ân là  người thầy mẫu mực của nhiều thế hệ.

Lăng mộ Lương Đắc Bằng được xây cất lại làng Hội Triều. Năm 1994 khu lăng mộ và nhà thờ ông đã được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Từ truyền thống tôn sư trọng đạo, tại thị trấn Bút Sơn (Hoằng Hoá) có ngôi trường mang tên Lương Đắc Bằng.

Năm 2014, Hội thảo khoa học về Bảng nhãn Lương Đắc Bằng được tổ chức, đã khẳng định và làm rõ thêm vai trò lịch sử và khí chất cao quý của người thầy - danh sĩ xứ Thanh. 

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ