Không chỉ làm quan trải qua nhiều đời vua, Nguyễn Như Đổ còn là vị Bảng nhãn có tuổi thọ cao nhất. Nhà sử học Phan Huy Chú từng đánh giá: “Ông lúc trẻ khi đỗ Khôi nguyên, khi lớn làm quan to lên được cõi thọ trăm tuổi (103 tuổi), trải qua 8 triều vua, cũng là một sự ít có trong hoạn đồ”.
Chấm dứt lệ cống ngọc trai
Nguyễn Như Đổ (1424 - 1526), tên chữ Mạnh An, hiệu Khiêm Trai, người làng Đại Lan Châu, huyện Thanh Đàm, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam, nay là thôn Đại Lan, xã Duyên Hà (Thanh Trì - Hà Nội).
Sách “Những người thầy trong sử Việt” viết rằng: “Từ bé, ông ham học hỏi, cứ 2 năm lên được 3 lớp mà năm nào cũng xếp loại ưu”. Năm Đại Bảo thứ 3 (1442) dưới thời Lê Thái Tông, triều đình tổ chức khoa thi hội đầu tiên của thời Lê Sơ, Nguyễn Như Đổ khi đó 18 tuổi.
Khoa thi đặc biệt này có 450 người dự, được các bậc hiền tài như: Lê Văn Linh, Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân, Trần Thuấn Du, Nguyễn Tử Tấn chấm thi, lấy 33 người trúng cách. Nguyễn Như Đổ đỗ Hội nguyên đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ nhị danh (Bảng nhãn). Ông cũng là Bảng nhãn đầu tiên của nhà Lê Sơ và Nguyễn Trực trong khoa thi này cũng đỗ Trạng nguyên.
Mùa đông năm Quý Hợi (1443) niên hiệu Thái Hòa, Nguyễn Như Đổ được cử giữ việc soạn chế cáo ở Viện Hàn lâm, vâng mệnh làm phó sứ sang Minh tạ việc vua Minh phúng Thái Tông mất. Khi về ông được phong An phủ sứ lộ Quy Hóa, vùng đất Tuyên Quang, Yên Bái ngày nay.
Năm Kỷ Tỵ (1449) thăng trực học sĩ. Năm Canh Ngọ (1450) lại sung phó sứ sang Minh.
Vào mùa thu năm Kỷ Mão (1459), vua Nghi Dân sai ông đi sứ lần thứ ba sang nhà Minh, trong cống phẩm lần này có cả ngọc trai. Ông hiểu nỗi thống khổ của người dân Đại Việt lặn lội nơi biển sâu để tìm ra của quý này, nên cùng Lê Cảnh Huy, Hoàng Thanh và Trạng nguyên Nguyễn Nghiêu Tư biện bạch với vua Minh miễn cho Đại Việt lệ cống này.
Lê Quý Đôn viết trong sách “Kiến văn tiểu lục” ghi rằng: “Hồi đầu niên hiệu Quang Thuận, Hàn lâm viện học sĩ Tiền Phổ sang sắc phong. Tiền Phổ là người thích tranh luận cho nên thư từ bắt bẻ, việc gì cũng phải ba bốn lần mà nước ta thù ứng phải kính trọng, khen ngợi”.
Trước một sứ thần như Tiền Phổ, người tiếp phải có học rộng tài cao, vua Lê Thánh Tông đã giao cho Lê Hoằng Dục (con đô đốc Lê Văn Linh) và Nguyễn Như Đổ đảm trách việc này.
Tiền Phổ có thư từ chối lễ vật riêng: “Từ khi phụng mệnh sang sứ đến nay được vua sai cận thần là Lê Hoằng Dục và Nguyễn Như Đổ ở luôn bên cạnh. Hai người này học hành đủ cả, thực đáng là bề tôi tín nhiệm của vua, một ngày không thể rời ra được, thế là vua cho ở luôn để tiện tống lâu đến 12 ngày”.
Làm quan trải 8 đời vua
Trong thời gian đi sứ, trong nước xảy ra binh biến. Các đại thần là Nguyễn Xí, Đinh Liệt lật đổ Nghi Dân, đưa hoàng tử Lê Tư Thành lên ngôi, trở thành vua Lê Thánh Tông. Trước tình hình đó, người trong đoàn sứ đã rất lo lắng khi tấm sắc phong của nhà Minh mà họ cất công mang về là công nhận cho vua Nghi Dân.
Họ bàn nhau hủy tấm sắc đi, Nguyễn Như Đổ quyết giữ lại rồi trình lên vua mới trong buổi chầu triều. Lê Thánh Tông lật xem các bản tấu, thấy tờ sắc phong cho Nghi Dân... Vua mỉm cười, khen ngợi Như Đổ đã giúp nước bỏ lệ cống ngọc trai, không đả động đến tờ sắc phong cho Nghi Dân.
Lê Thánh Tông đánh giá chánh sứ Nguyễn Như Đổ công tâm, rạch ròi, có thể tin cậy. Vua chọn ông làm bầy tôi tâm phúc, giao cho những vị trí quan trọng, cần sự tin cẩn.
Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” ghi việc bổ nhiệm cho Nguyễn Như Đổ: Năm 1460, “lấy Nguyễn Như Đỗ làm Lại bộ thượng thư”, lại thêm chức Tả ty sảnh Môn hạ, Tả gián nghị đại phu, coi sổ sách quân dân ở Bắc đạo, kiêm Thừa chỉ học sĩ Viện Hàn lâm.
Sau đó ông kiêm chức Thượng thư Bộ Lễ, giúp vua sắp xếp lại hệ thống hành chính từ trung ương đến địa phương, lựa chọn, tiến cử người tài để vua sử dụng. Nguyễn Như Đổ có thời gian được cử vào điện Càn Đức dạy các hoàng tử và được coi là học quan - người thầy có vai trò quan trọng trong thời đại này.
Sau bản tấu của Bảng nhãn Trịnh Thiết Tường vạch tội quan Hình bộ Đỗ Tông Nam ăn hối lộ. Nguyễn Như Đổ vì tiến cử người này mà bị vua quở trách và bị vua giao cho pháp ty trị tội. Tuy vậy, một thời gian sau, ông được triệu lại triều đình và cho phục chức, tiếp tục làm Thượng thư, phụ trách nhiều việc quan trọng của triều đình.
Nguyễn Như Đổ sống qua 8 đời vua Lê: Lê Nhân Tông (1443 - 1459), Lê Thánh Tông (1460 - 1497), Lê Hiến Tông (1497 - 1504), Lê Túc Tông (1504), Lê Uy Mục (1505 - 1509), Lê Tương Dực (1510 - 1516), Lê Chiêu Tông (1516 - 1522) và Lê Cung Hoàng (1522 - 1527).
Ông được đánh giá là tài năng chính trị, ngoại giao và giáo dục hiếm có. Nhà sử học Phan Huy Chú từng đánh giá: “Ông lúc trẻ thi đỗ khôi nguyên, khi lớn làm quan to, lên được cõi thọ trăm tuổi, trải qua 8 triều vua, cũng là sự ít có trong hoạn đồ”.
Trong phần Nhân vật chí, Phan Huy Chú còn đánh giá Nguyễn Như Đổ là một trong 18 người có công lao phò tá tài đức thời Lê Sơ.
Nhà giáo dục lỗi lạc
Nguyễn Như Đổ là người văn thơ nổi tiếng, tiếc rằng các sáng tác của ông bị mất mát nhiều, hiện nay chỉ còn lại một số bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn.
Nhà sử học Trần Văn Giáp viết: Trú ở phía Nam thành Thăng Long, ông là một nhà thơ đặc biệt Hà Nội. Dưới đây là hai bài thơ của ông, bản dịch của Nhóm văn học Lê Quý Đôn, in trong Hoàng Việt thi văn tuyển, NXB Văn hóa - 1958:
“Nhà ở trong vườn phía Nam thành/Nhà dựng Nam thành trải mấy xuân/Đám rau vườn thuốc mở mang dần/Chẳng e lối hẻm liền đường tía/Lại được rào thưa cách bụi trần/Mưa tạnh ếch kêu hồ rộn tiếng,/Cây râm chim hót bóng đầy sân/Trúc hoa sẵn đủ mùi thanh đạm/Mỗi buổi chầu tan hưởng thú bần”.
Nhà sử học Trần Văn Giáp viết: Qua bài thơ trên, chúng ta thấy thơ của ông thanh đạm mà phóng khoáng, tả cảnh sắc rất hoạt động. Câu cuối nhắc người ta nhớ đến câu: “Triều hồi nhật nhật điển xuân y” (Chầu về, ngày ngày cố áo xuân) của Đỗ Phủ, và cảm thấy ông đã cố gắng học tập cái tinh tế, hàm súc trong thơ Đỗ Phủ. Như bài sau đây chứng tỏ cái ung dung, thích thảng của một người có đạo đức cao quý, tự tin ở mình, coi thường danh lợi:
“Chiều xuân ở phòng sách/ Nam thành xuân đã muộn/Nhà tranh ván sơ sài/Rêu biếc thềm phủ khắp/Cỏ xanh sân mọc đầy/Khách đến vừa tỉnh mộng/Chim kêu hoa cũng rơi/Thong thả qua ngày tháng/ Kinh dịch chấm son mài”.
Khi nhận xét về thơ của ông, “Lịch triều hiến chương loại chí viết”: “Bảng nhãn họ Nguyễn ở Lan Châu là người đỗ Khôi nguyên lúc mới khai quốc, văn chương có tiếng ở đời”.
Nguyễn Như Đổ không chỉ là một người giỏi văn chương mà còn thể hiện tài năng ở võ bị và giáo dục. Ông từng theo vua đi đánh Chiêm Thành, làm chủ khảo một số kỳ thi lớn của triều đình.
Năm Quý Mùi (1463), Như Đổ được cử làm độc quyển trong kỳ thi đình. Đó là một trong hai kỳ thi đông vui nhất của thời Lê Thánh Tông. Sĩ tử về kinh đô dự thi tới 1.400 người. Kỳ này lấy Lương Thế Vinh đỗ Trạng nguyên. Sau đó, ông còn được cử làm Đề điệu (chủ khảo) trong hai kỳ thi đình năm 1466 và 1469.
Hơn 60 tuổi, Nguyễn Như Đổ vẫn được giao chủ trì trùng tu Văn Miếu Quốc Tử Giám, rồi làm Tế tửu Quốc Tử Giám 10 năm mới về hưu. Tên của ông được khắc trên tấm bia đá đầu tiên dựng năm 1484 đặt tại đình bia bên phải trong vườn bia Văn Miếu.
Trong đời Thái Hòa, ông vâng mệnh soạn bài văn bia miếu Lê Khôi - tướng tài và là cháu của vua Lê Thái Tổ, ở núi Nam Giới (nay ở địa giới hai huyện Can Lộc và Thạch Hà, Hà Tĩnh). Năm 1964, tấm bia đá khắc văn của Nguyễn Như Đổ bị bom Mỹ phá hủy.
Trải qua 8 đời vua với nhiều chức quan trọng yếu của triều đình, Nguyễn Như Đổ rành rẽ công việc ở triều chính, hiểu cần chuẩn bị những gì cho nền giáo dục, cho việc đào tạo nhân tài phục vụ đất nước.
Năm Ất Dậu (1526) đời vua Lê Cung Hoàng, Nguyễn Như Đổ mất tại quê nhà, hưởng thọ 103 tuổi Tháng 3/1994, HĐND thành phố Hà Nội đã đặt một con phố ở quận Đống Đa mang tên Nguyễn Như Đổ để tôn vinh và tri ân danh nhân Thăng Long.