Chuyện thú vị về các Bảng nhãn Việt Nam: Kỳ 4: Văn chương áo mũ, khai dựng quốc sử

GD&TĐ - Là người mở đầu khoa bảng xứ Thanh, và là vị Bảng nhãn thứ 2 của Việt Nam – Lê Văn Hưu tỏa sáng khí phách văn chương, dựng bộ quốc sử đầu tiên của nước Nam.

Năm 1990, đền thờ Lê Văn Hưu được xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa quốc gia.
Năm 1990, đền thờ Lê Văn Hưu được xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa quốc gia.

Hàn lâm viện học sĩ kiêm Quốc sử Viện giám tu Lê Văn Hưu đã hoàn thành việc biên soạn “Đại Việt sử ký” - bộ quốc sử đầu tiên của Việt Nam ghi lại những sự việc quan trọng của 15 thế kỷ trước. 

Thần đồng xứ Thanh

Lê Văn Hưu (1230 - 1322) là người làng Phủ Lý (Kẻ Rị) nay thuộc xã Thiệu Trung (Thiệu Hóa – Thanh Hóa). Ông là dòng dõi của Trấn Quốc Bộc xạ Lê Lương.

Theo gia phả họ Lê Lương và giai thoại làng Kẻ Rị xưa, khi Lê Văn Hưu ra đời đã mồ côi bố. Lúc chào đời, khắp nhà mùi hoa lan sực nức, ứng với giấc mơ của người mẹ.

Tương truyền, cậu bé Lê Văn Hưu sớm biết nói, mẹ cậu là người sinh ra trong gia đình Nho học, vốn biết ít nhiều chữ nghĩa nên thường dạy truyền miệng cho con chữ nghĩa để thấm dần, mong con về sau hay chữ. Khi đến năm - sáu tuổi, Văn Hưu được ông ngoại dạy học từng đoạn văn sách, cậu thuộc nhanh và thường đem khoe với người lớn.

Minh họa Bảng nhãn Lê Văn Hưu. Ảnh: IT.
 Minh họa Bảng nhãn Lê Văn Hưu. Ảnh: IT.

Năm 9 tuổi, Lê Văn Hưu được đưa đến học với ông đồ ở Cổ Bôn, bên bờ Bắc sông Hương Giang (sông nhà Lê). Cậu học trò sáng dạ, thầy đồ họ Nguyễn thường khen ngợi hết lời, nên tiếng tăm “thần đồng Hưu” nổi tiếng gần xa.

Một hôm đi ngang qua lò rèn, thấy người ta đang làm những cái dùi sắt, Lê Văn Hưu muốn xin một cái để làm dùi đóng sách. Người thợ rèn thấy vậy, bèn ra một vế đối: “Than trong lò, sắt trong lò, lửa trong lò, thổi phì phò đúc nên dùi vở”. Cậu bé Văn Hưu liền đối lại: “Nghiên ở túi, bút ở túi, giấy ở túi, viết lúi húi mà đậu khôi nguyên”.

Không chỉ đối mà được dùi vở, cũng chỉ bằng câu đối mà Lê Văn Hưu còn lấy được vợ. Chuyện rằng, thầy đồ có hai cô con gái xinh đẹp, nhất là cô chị. Lê Văn Hưu thầm yêu trộm nhớ đã lâu. Hôm ấy hai cô phơi đậu ở sân, Văn Hưu mải ngắm, quên cả bài thầy đang giảng và phải chịu phạt.

Thầy đồ ra vế đối, nếu đối được sẽ tha: “Sân trước phơi đậu, sân sau phơi đậu, ngươi muốn đậu ta cho đậu”. Lê Văn Hưu đối lại: “Cô lớn hái hoa, cô bé hái hoa, ông thám hoa, tôi thám hoa”. Thầy đồ nghe vậy, đành chịu mà gả con gái đầu cho.

Hay lần khác thầy ra vế đối: “Con mộc tựa cây bàng, dòm nhà Bảng nhãn”. Lê Văn Hưu đối: “Thằng quỷ ôm cái đấu, tựa cửa khôi nguyên”.

Áo mũ thơm danh xóm làng

Lăng mộ Lê Văn Hưu tại khu di tích.

Lăng mộ Lê Văn Hưu tại khu di tích.

Ở làng Kẻ Rị từ xưa đã lưu truyền chuyện bà mẹ của Lê Văn Hưu rất kỳ vọng vào con. Bà đến Kẻ Chè nhờ thợ đúc cho con một cây đèn hình con rồng đang vươn lên. Bà dùng bảy viên ngọc nhỏ mà gia đình nhà chồng - trước kia được vua ban thưởng để ông thợ khảm vào mắt rồng, đầu rồng và bốn chân rồng.

Đêm đêm, đèn thắp lên ánh ngọc tỏa sáng cho cậu bé Hưu học bài. Tương truyền, đi đâu Lê Văn Hưu cũng đem đèn đi theo. Cho đến khi đã thi đỗ và làm quan ở Thăng Long, hoặc lúc soạn sách vẫn làm việc cần mẫn dưới ánh sáng của cây đèn rồng.

Truyền thuyết vùng Nhuệ Sơn (núi Nhồi) huyện Đông Sơn kể rằng, trước khi ra kinh đô ứng thí, chàng trai Lê Văn Hưu có đến chùa Báo Ân ở núi An Hoạch (nay thuộc xã Đông Tân, TP Thanh Hóa) để đọc sách cho yên tĩnh. Thấy có chàng trai chăm chỉ sách đèn, một ông Tiên trên núi xuống trò chuyện rồi thành bạn tri kỷ.

Một hôm nhìn cây thiên tuế trước chùa, ông Tiên liền đọc vế đối: “Cây thiên tuế sống ngàn năm” với ý sống thanh bạch nơi cửa chùa không bụi bặm mà sống đến nghìn năm. Lê Văn Hưu chỉ giàn hoa thiên lý gần đó mà đọc: “Hoa thiên lý thơm vạn dặm”. Ý rằng hoa thiên lý tỏa mùi thơm có ích cho đời, đem tinh túy của trời đất đến vạn dặm chứ không chịu yên phận sống lặng lẽ.

Năm Đinh Mùi 1247, Lê Văn Hưu đi thi đỗ Bảng nhãn. Đây là khoa thi đặc biệt, khi danh hiệu tam khôi thuộc về 3 học trò trẻ tuổi: Nguyễn Hiền (12 tuổi đỗ Trạng nguyên), Lê Văn Hưu (17 tuổi đỗ Bảng nhãn), Đặng Ma La (14 tuổi đỗ Thám hoa).

Lê Văn Hưu được coi là vị tiến sĩ đầu tiên của xứ Thanh, mở đầu con đường khoa cử cho vùng đất này. Trong đền thờ Lê Văn Hưu còn ghi câu đối: Khắc Thiệu Hóa cơ, Nam Bắc Đông Tây Sơn Đẩu vọng/Vĩnh Thanh Hoa địa, y quan chương phú lý dư hương. Nghĩa là: Đặt nền Thiệu Hóa, khắp Nam Bắc Đông Tây trông về Thái Sơn Sao Đẩu/Vững đất Thanh Hoa, văn chương áo mũ thơm làng xóm quê hương.

Sau khi thi đỗ, vua cho ông dạy hoàng tử Trần Quang Khải - người sau này trở thành Thượng tướng quân đầy uy dũng trong các cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược. Sau đó, Lê Văn Hưu được bổ dụng và trải qua các chức quan Kiểm pháp, rồi Binh bộ Thượng thư, sau đó là Hàn lâm viện học sĩ kiêm Quốc sử Viện giám tu.

Đặt nền móng sử học

Tấm bia dựng năm Tự Đức thứ 20 (1867), khắc ghi tiểu sử và bài minh ca tụng tài đức của Lê Văn Hưu.

Tấm bia dựng năm Tự Đức thứ 20 (1867), khắc ghi tiểu sử và bài minh ca tụng tài đức của Lê Văn Hưu.

Trong thời gian làm việc ở Quốc sử Viện, theo lệnh vua Trần Thái Tông, Lê Văn Hưu đã thu thập tất cả các tư liệu ghi chép ít ỏi và sơ sài của thời Lý và cùng thời để biên soạn lại. Đồng thời viết thêm rất nhiều phần khác để thành bộ quốc sử.

“Đại Việt sử ký” - bộ quốc sử đầu tiên của Việt Nam ghi lại những sự việc quan trọng chủ yếu trong một thời gian lịch sử dài gần 15 thế kỷ, từ Triệu Vũ đế (Triệu Đà) tới Lý Chiêu Hoàng. Bộ sử có tất thảy 30 quyển, hoàn thành năm 1272 và được vua Thánh Tông xuống chiếu ban khen.

Lê Văn Hưu được các sử quan đời sau đánh giá là “Đại thủ bút đời Trần”, “nghĩa lớn khen chê rành rành như công luận”. Lê Văn Hưu được đề cao như những nhà sử học lớn: Có người lấy tên nhà sử học Herodotos của Hy Lạp để sánh, hoặc ví ông như nhà sử học Tư Mã Thiên của Trung Hoa.

Từ bộ quốc sử đầu tiên, sử quan các triều đại sau đã biên soạn lại và bổ sung những giai đoạn lịch sử nối tiếp. Đời vua Trần Nhân Tông (1278 - 1293), quan Quốc Tử Giám bác sĩ tri Quốc sử Viện là Phan Phu Tiên vâng mệnh vua Lê soạn “Đại Việt sử ký” (soạn thêm từ đời Trần Thái Tông, đến khi Lê Lợi đánh đuổi quân Minh về nước – 1427).

Đời vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497), vào năm 1479, sai sử quan tu soạn Ngô Sỹ Liên soạn “Đại Việt Sử ký toàn thư”, 15 quyển. Nhóm Ngô Sỹ Liên đã lấy hai bộ sử của Lê Văn Hưu và Phan Phu Tiên, tức “lấy hai bộ sách của tiên hiền ra, hiệu chỉnh, biên soạn lại, thêm vào một quyển “ngoại kỷ” (nay là quyển 1) và “Tam triều bản kỷ” (gồm 3 triều: Lê Thái Tổ (1428 – 1433); Lê Thái Tông (1433 - 1442); Lê Nhân Tông (1442 - 1459). Dấu vết còn lại của bộ “Đại Việt sử ký toàn thư” mà Ngô Sỹ Liên chủ trì là 166 đoạn dưới tiêu đề “Sử thần Ngô Sỹ Liên nói”.

Năm 1511, Vũ Quỳnh là sử quan Đô tổng tài soạn xong bộ “Thông giám thông khảo Đại Việt” gồm 26 quyển (còn gọi là “Việt giám thông khảo”). Bộ này có phần: Tứ triều bản kỷ (gồm 4 đời: Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông, Lê Túc Tông, Lê Uy Mục là viết thêm, phần trước sửa chữa bổ sung tác phẩm của nhóm Ngô Sỹ Liên).

Ở đời Lê Huyền Tông (1662 - 1671), năm 1665 Phạm Công Trứ (1600 - 1675), được giao biên soạn quốc sử khi đang ở chức vụ Tham tụng, Lại bộ Thượng thư, kiêm Đông các đại học sĩ. Bộ sử của nhóm Phạm Công Trứ gồm 23 quyển chép từ thời Hồng Bàng đến Lê Thần Tông (1662).

Năm 1676, triều Lê Hy Tông (1676 - 1705), triều đình giao cho Hồ Sĩ Dương - Thượng thư Bộ Công trông coi việc sửa quốc sử. Công việc chưa xong thì năm 1681, Hồ Sĩ Dương mất, nhiệm vụ được tiếp tục do Lê Hy đang giữ chức Tham tụng, Hình bộ Thượng thư Tri Trung thư giám.

“Bộ Đại Việt sử ký toàn thư” được hoàn thành năm 1697, niên hiệu Chính Hòa thứ 18, chép thêm hai đời vua: Lê Huyền Tông (1662 - 1671) và Lê Gia Tông (1671 - 1675). Bộ “Đại Việt sử ký toàn thư” hiện nay được giữ nguyên bộ dạng bộ sử niên hiệu Chính Hòa thứ 18 này.

Do đã qua nhiều lần sửa chữa, hiệu đính nên trong đó phần “Đại Việt sử ký” của Lê Văn Hưu chỉ còn giữ lại 30 đoạn dưới đề mục “Lê Văn Hưu nói”, thường gọi là “lời bàn của Lê Văn Hưu”. Những lời bàn này xoay quanh ba nội dung: Đất nước, nhân dân và đạo đức.

Lê Văn Hưu cáo quan trí sĩ tại quê nhà và mất ngày 23/3 năm Nhâm Tuất (1322), thọ 92 tuổi. Ngày nay, phần mộ Lê Văn Hưu ở xứ Mả Giòm có tấm bia dựng năm 1867 đề “Bảng nhãn Lê tiên sinh bi ký”. Năm 1990, đền thờ Lê Văn Hưu được được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa quốc gia.

“Văn Hưu là người chép sử giỏi đời Trần, Phu Tiên là bậc cổ lão của thánh triều ta, đều vâng chiếu biên soạn lịch sử nước nhà, tìm khắp các tài liệu còn sót lại, tập hợp thành sách để cho người xem đời sau không có gì phải tiếc nữa, thế là được rồi” - Lời của sử quan Ngô Sỹ Liên viết trong “Đại Việt sử ký toàn thư”.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ