Từ người thầy chốn quê mùa, ông trở thành vị quan thanh liêm, tận hiến trọn vẹn với triều đình nhà Lê.
Trong lịch sử khoa bảng và văn hóa tri thức Việt Nam, tên tuổi những bậc đại khoa luôn chiếm một vị trí trang trọng. Các vị Tiến sĩ nho học không chỉ là biểu tượng của học vấn mà còn là tấm gương đạo đức, trách nhiệm với dân với nước. Tiến sĩ Đào Vũ Thường là một chân nho như vậy. Cuộc đời và sự nghiệp của ông là sự kết hợp giữa học vấn uyên thâm, khí phách dân tộc và phẩm cách thanh liêm…
Người thầy làng Yên Lũ
Đào Vũ Thường sinh vào đầu thế kỷ 18 (có tài liệu ghi 1701). Tuy nhiên, theo thông tin trên bia thờ tại từ đường và gia phả phụng lập năm 2002 thì ông sinh năm 1705, mất năm 1754, quê xóm nhà Rỏ, làng Yên Lũ, huyện Thanh Lan, phủ Tiên Hưng, trấn Sơn Nam, sau là xã Đông Quang, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình (nay là xã Nam Đông Hưng, tỉnh Hưng Yên).
Làng Yên Lũ quê hương ông được coi là vùng địa linh, nhân kiệt, nơi nuôi dưỡng truyền thống hiếu học, trọng chữ nghĩa. Từ vùng đất này, nhiều người theo đường khoa bảng chữ nghĩa, thành tài thành danh.
Từ nhỏ, Đào Vũ Thường đã nổi tiếng khắp trong phủ ngoài trấn bởi tính ham học, chịu khó và tư chất thông minh, hội đủ những đức tính then chốt để bước vào con đường khoa cử. Nhiều giai thoại ở Yên Lũ kể lại cảnh ông ngày đêm miệt mài sách vở, học trò tìm đến xin học ngày một đông. Bởi vậy mới có câu ca: “Nức danh Yên Lũ họ Đào/ Gần xa sĩ tử xin vào nhập môn”.
Khoa Quý Mão (1723) niên hiệu Bảo Thái thời vua Lê Dụ Tông, Đào Vũ Thường tham gia ứng thí đỗ Hương cống. Việc đỗ Hương cống và được bổ làm quan Huấn đạo (giảng dạy, quản lý giáo dục) đánh dấu vai trò sớm của ông trong việc truyền đạt tri thức và đào tạo nhân tài. Là quan Huấn đạo, ông không chỉ giảng dạy chữ nghĩa mà còn chú trọng giáo dưỡng nhân cách học trò. Chính phẩm hạnh ấy đã khiến học trò kính trọng và có nhiều người sau này tiến thân trong sự nghiệp quan trường.
Theo giới nghiên cứu lịch sử, điểm nổi bật trong cuộc đời danh nhân Đào Vũ Thường là sự nghiệp giáo dục kéo dài. Suốt hơn hai thập kỷ giảng dạy, ông chủ trương vừa truyền thụ kiến thức Hán học, vừa rèn luyện đức hạnh. Vì vậy, ông đã gieo mầm cho nhiều nhân tài, có thể kể đến những học trò thành danh như Đào Vũ Phô (làm tới chức Án sát trấn Nghệ An) hay Đào Vũ Điền (giữ quyền Chiếu khám Ngự sử đài) minh chứng cho ảnh hưởng thực tế của ông đối với giáo dục vùng và việc phát triển bộ máy nhân sự triều đình nhà Lê.
Có giai thoại còn kể, Đào Vũ Thường từng hiến ba gian nhà gỗ lim cho huyện làm Văn từ, điều đó cho thấy tấm lòng của ông đối với việc tôn vinh văn hóa học thuật đương thời.

Cuộc đối đáp lưu danh sử sách
Tuy công việc dạy học và trọng trách quan Huấn đạo rất bận rộn, nhưng Đào Vũ Thường vẫn kiên trì dùi mài kinh sử, tích lũy kiến thức chờ một ngày bảng vàng ghi danh. Năm Bính Dần (1746) niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 7 đời vua Lê Hiển Tông, triều đình tổ chức kỳ thi Đình để kén chọn nhân tài.
Đào Vũ Thường tham gia ứng thí, đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ xuất thân. Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa thi này do Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu Hàn lâm viện Thừa chỉ Dương Công Chú vâng sắc soạn; Tham tụng, Thượng thư bộ Lễ kiêm Đông các Hiệu thư Nguyễn Công Thái vâng sắc nhuận, mô tả: “Buổi ấy, sĩ tử tới đua tài không dưới 2.000 người, số trúng tuyển là bọn Trần Danh Tố 4 người. Ngày 21 tháng 5 vào Điện thí. Hôm sau quan Độc quyển nâng quyển đọc, Hoàng thượng định thứ bậc cao thấp, cho Đoàn Thụ đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, bọn Trần Danh Tố 3 người đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân. Loa truyền gọi tên, bộ Lễ treo bảng vàng ngoài cửa nhà Thái học. Việc ban áo mũ yến tiệc đều y theo lệ cũ”.
Đây là thành tựu rạng rỡ, bởi 2.000 cống sĩ trên cả nước, việc trở thành một trong 4 Tiến sĩ không chỉ là danh vọng cá nhân mà còn là niềm tự hào của quê hương. Vinh quy bái tổ, ông được ban áo mũ, cấp lộc điền, và đặt dấu ấn của mình trên bia Tiến sĩ tại Văn Miếu minh chứng trường tồn cho thành tựu khoa bảng.
Theo quốc lễ triều Lê thời đó, mỗi Tiến sĩ được cấp 30 mẫu đất để sinh cơ lập nghiệp, sinh con đẻ cháu. Tiến sĩ Đào Vũ Thường không nhận những chân ruộng tốt, bờ xôi ruộng mật dân đã tốn công khai phá mà xin nhận đất ở cánh đồng mả Lờn thuộc tổng Cát Hộ, cạnh làng Yên Lũ. Ông đưa con cháu, dân làng đến khai phá đào sông dẫn thủy nhập điền trở thành ruộng đồng, làng mạc lập thành trại Đồng Lan từ đó. Đồng Lan có nghĩa là cùng thơm, đặt tên như vậy theo ý của Tiến sĩ Đào Vũ Thường là “lộc điền vua ban nhưng công khai phá là của nhân dân, trong đó có nhiều dòng họ khác nhau”. Với cái tên Đồng Lan, ông mong ước làng mình sẽ như bông hoa lan mãi thơm thảo, no ấm, thuận hòa.

Sau khi đỗ Tiến sĩ, Đào Vũ Thường được bổ nhiệm làm Công khoa cấp sự trung, tham gia quản lý hành chính triều đình. Từ bậc thầy ở địa phương, ông bước vào guồng máy chính trị trung ương, nơi các phẩm chất liêm khiết và cương trực trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.
Một trong những sự kiện được lưu truyền rộng rãi là lần ông tham gia việc tiếp đoàn sứ bộ nhà Thanh tại Thăng Long. Khi sứ thần Trung Hoa tới thăm đền Hai Bà Trưng (làng Hà Lôi, Đồng Nhân), Đào Vũ Thường đã ứng khẩu làm bài ngâm, ca ngợi khí phách và chiến công của Hai Bà - biểu tượng chống ngoại xâm và tinh thần nữ quyền thời cổ Việt Nam.
“Anh hùng chí khí nữ nhi nan/ Thiên cổ linh nhân bách bách đàm/ Tùng phỉ xích phù thiên sử Bắc/ Hán nam đệ khiến địa đồ Nam/ Nhật thân vật dĩ yên kiều biếm/ Tam hiệp do linh quách thước đàm/ Hương hải tang điền kinh kỳ cựu/ Y y miếu mạo chiêm hàm nam”.
(Anh hùng chí khí kém chi nam/ Khí thiêng nghìn thuở mãi luận bàn/ Cờ đỏ tung bay, trời giúp Bắc/ Đánh Hán thành công đoạt trời Nam/ Dẫu thua đâu phải vì phận gái/ Rằng được thêm râu kể tướng già/ Bãi bể nương dâu bao thế cuộc/ Đền vẫn uy nghi bóng chiều lam).
Bài thơ mặt chữ Hán mà ông sáng tác với những câu hào sảng mô tả tinh thần anh hùng, đã khiến sứ bộ nước ngoài nể phục, không dám khinh thường đất nước nhỏ bé nhưng có khí tiết lớn.
Đây là một tình huống thơ ca trở thành phương tiện ngoại giao mềm, thể hiện lòng tự trọng dân tộc và trình độ văn hóa của một học giả. Hành xử ấy phù hợp với mô thức “văn dùng để trị quốc” của tầng lớp nho sĩ, văn hóa không chỉ để thưởng thức, mà còn là công cụ chính trị, ngoại giao và khẳng định bản sắc.

Di sản vị thanh quan tận hiến vì dân
Sau lần đối đáp với sứ thần nhà Thanh, Đào Vũ Thường được thăng lên chức Nghệ An Thanh bình Hiến sát sứ, trông coi việc pháp luật của ba tỉnh Nghệ An, Thanh Hoá và Ninh Bình. Trong những năm tháng làm quan, Đào Vũ Thường luôn giữ được đức độ thanh liêm chính trực, phân xử hết sức công minh, lấy được lòng tin yêu của dân chúng. Ngày 23/7/1754, khi vừa bàn giao công việc cũ để đi nhậm chức ở Kinh Bắc thì ông đột ngột qua đời.
Danh xưng “vị Ngự sử không gia tài” phản ánh quan niệm dân gian về sự thanh bạch của ông. Khi mất, ông để lại không phải là ruộng vườn hay kho tàng tài sản, mà là danh tiếng, vài hiện vật triều đình ban, như tấm biển “Ân tứ vinh quy”, lá cờ thêu “Đệ tam giáp Tiến sĩ xuất thân” và chiếc mũ vua ban là chứng tích cho cả sự nghiệp khoa bảng lẫn phẩm chất cá nhân.
Một khía cạnh ít được nhắc đến của nhiều nho sĩ là việc họ can dự trực tiếp vào đời sống kinh tế, và Đào Vũ Thường không phải ngoại lệ. Tư liệu địa phương ghi ông đã cho đào sông (như Vạn Giang) để dẫn nước vào ruộng, mở diện tích canh tác; ông lập trại (Đồng Lan) trên vùng đất trước kia hoang hóa. Nơi này đã ghi công đức của Đào Vũ Thường và thờ ông làm bài vị thành hoàng khai sáng.
Tiến sĩ Đào Vũ Thường cũng thúc đẩy hình thành chợ làng để thương nghiệp phát triển. Những công việc ấy gắn trực tiếp với an sinh giúp nông dân sinh kế, tạo cơ sở vật chất cho sự phồn vinh của làng xã. Vai trò ông không chỉ là “thầy” hay “quan”, mà còn là “khai hóa” trong nghĩa thực tế, đóng góp vào tiến trình phát triển chung của xã hội đương thời.
Năm 1762, sau 2 năm đi sứ Trung Quốc, Bảng nhãn Lê Quý Đôn hiểu rõ danh tướng Hoàng Phúc - một đại thần triều Minh, từng làm tán quân vụ ở An Nam. Ông là người giỏi địa lý, đã sử dụng “Cao Biền tấu thư”, “Địa lý kiều tự” tại Đại Việt thực hiện yểm thuật.
Tri ân công đức của quan Ngự sử Kinh Bắc Đào Vũ Thường, Lê Quý Đôn đã xin vua Lê cấp ngôi mộ trong kiểu đất đẹp “Hạ Bì chi thủy” cùng với ruộng cho thủ mộ truyền nhiều đời trông nom. Con trai cả của Đào Vũ Thường là Đào Vũ Điển đã chuyển cát táng cha về Hạ Bì, thuộc thôn Đỗ Thượng, xã Phạm Kha, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương cũ.
Theo gia phả, Tiến sĩ Đào Vũ Thường kết hôn với bà Phạm Thị Siêu, hiệu là “Nhân anh nghi nhân”. Ông bà có ít nhất ba con trai đều nối nghiệp học vấn: Đào Vũ Điền thông minh học giỏi, đỗ Hương cống nên gọi là Cống cả. Tuy học vị không bằng cha nhưng về đường quan trường, ông lại cao hơn cha mình một trật. Ông được triều đình sắc phong tới chức Ngự sử đài chiếu khám vào năm 1777 khi mới 35 tuổi. Ông là bạn thân với Bảng nhãn Lê Quý Đôn đồng triều.
Con trai thứ hai là Đào Vũ Tuân đỗ Hương cống nên gọi là Cống hai. Ông nổi tiếng cương trực, gặp lúc Tây Sơn ra Bắc Hà (1788), vua Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc. Ông không ra làm quan với nhà Tây Sơn, trung thành phù Lê, bèn cùng với nhiều cống sĩ dấy quân đánh nhau với Tây Sơn. Kháng cự được vài năm, do quân Tây Sơn quá mạnh nên ông tuẫn tiết. Thi hài ông được táng ở làng Phù Tải (làng Giải) huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương cũ, người địa phương gọi nơi ấy là mả quan.
Con trai thứ 3 là Đào Vũ Cầu, theo học tại nhà Chiêu Văn quán, hàm Tú lâm cục, chức nho sinh nên thường gọi là nho ba. Một số hậu duệ họ Đào trong các thế hệ sau vẫn giữ truyền thống hiếu học và góp phần giữ gìn các hiện vật, di tích gia đình.
Hiện nay, ngôi từ đường họ Đào ở xã Nam Đông Hưng, tỉnh Hưng Yên đã được Bộ VH,TT&DL công nhận là di tích lịch sử - văn hóa. Tại địa phương, hàng năm vẫn duy trì lễ tưởng niệm, hoạt động văn hóa gắn với tên tuổi Tiến sĩ Đào Vũ Thường, từ việc giáo dục truyền thống hiếu học trong nhà trường đến các dịp kỷ niệm, tế lễ.
Cuộc đời vị đại khoa Đào Vũ Thường là tấm gương soi cho hậu thế, với những bài học còn nguyên giá trị: học vấn và đạo đức không thể tách rời; trí thức chân chính phải gắn bó với nhân dân chứ không vì danh lợi. Trong bối cảnh hiện đại, khi xã hội đang cần những tấm gương liêm chính, có trách nhiệm, thì nhân cách Đào Vũ Thường luôn là một tấm gương soi quý báu.
Tiến sĩ Đào Vũ Thường là hình tượng điển hình của nho sĩ Việt thế kỷ 18, hiếu học, tài năng, thanh liêm và gắn bó mật thiết với dân. Tên ông được khắc trên bia đá Văn Miếu, di vật ông để lại được gìn giữ tại từ đường họ Đào, và ký ức về ông vẫn được truyền tụng trong dân gian. Trong một xã hội luôn cần trí thức đức độ và trách nhiệm, việc phục dựng và hiểu đúng vai trò những danh nhân như Đào Vũ Thường không chỉ là hành động tôn vinh lịch sử mà còn là cách góp phần nuôi dưỡng giá trị đạo đức cho thế hệ tương lai.