Trong dòng chảy lịch sử, có những nhân vật để lại dấu ấn không chỉ vì tài năng học vấn, mà còn bởi số phận éo le, gắn liền với những biến cố thời cuộc đầy bi thương. Trong số ấy, Phan Hiển Đạo (1822 – 1864), thường được gọi là Tấn Sĩ Đạo, là một trường hợp tiêu biểu.
Bi kịch vì một lời phê của vua Tự Đức
Phan Hiển Đạo quê làng Vĩnh Kim Đông, huyện Kiến Hưng, tỉnh Định Tường; về sau đổi thành xã Dưỡng Điềm, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang (nay là xã Bình Trưng, tỉnh Đồng Tháp). Ông sinh ra trong một dòng họ khoa bảng ở chợ Thuộc Nhiêu. Cha ông là Phan Hiển Tần, đậu Tam trường từ khi chúa Nguyễn Ánh còn ở Gia Định, từng làm quan đến chức Án sát tại tỉnh Gia Định.
Đáng tiếc, đến đời Minh Mạng, không rõ vì lý do gì mà ông bị tội, mất chức, phải về quê vợ ở làng Vĩnh Kim Đông sống trong uất ức rồi qua đời. Trên mộ bia Phan Hiển Tần còn khắc đôi câu đối chan chứa nỗi bi ai: “Quân ân bát thiên lý/ Hương tình tam thập niên”, nghĩa là nhờ ơn vua mà đi xa tám nghìn dặm, nhưng nhớ quê hương thì đã ba mươi năm.
Xuất thân trong bầu không khí nho học, lại chứng kiến cảnh cha vướng oan khuất, Phan Hiển Đạo từ nhỏ sớm được hướng theo con đường khoa bảng với kỳ vọng rạng danh dòng họ. Thuở nhỏ, ông nổi tiếng thông minh, học giỏi. Gia đình gửi ông ra Huế trọ học ở nhà Tiến sĩ Phan Thanh Giản để có điều kiện tiếp xúc với nhiều bậc khoa bảng lớn đương thời.
Dưới sự nghiêm khắc của Phan Thanh Giản, ông chăm lo việc học, nhưng bản tính tài hoa, phóng khoáng khiến ông cũng ưa thích cầm kỳ. Nhân lúc rảnh rỗi, ông thường theo đám vương tôn công tử học đàn ca, dần trở thành một người am tường âm nhạc cung đình, đặc biệt nổi danh với ngón đàn tranh. Bởi vậy, bạn bè thường nhắc đến Phan Hiển Đạo như một sĩ tử phong nhã, vừa giỏi văn chương vừa tài hoa nghệ thuật.

Năm Đinh Mùi (1847), ông dự thi ở trường Thừa Thiên, đỗ Cử nhân hạng ba, sau đó trở về quê tiếp tục dùi mài kinh sử, chuẩn bị cho kỳ thi lớn hơn. Đến năm Tự Đức thứ 9 (1855), ông Phan Hiển Tần đã gửi thư theo ghe bầu nhờ con trai mang ra Huế trao cho Phan Thanh Giản - khi ấy giữ chức Hiệp biện Đại học sĩ, Binh bộ Thượng thư để cưu mang và giúp đỡ chờ ngày thi.
Kỳ ân khoa Bính Thìn (1856) diễn ra trong bối cảnh nhiều sĩ tử dốc sức tranh tài. Ngày 14/9, khi Phan Hiển Đạo đang làm bài thi, Phan Thanh Giản bất ngờ nhận được tin báo thân mẫu của ông vừa tạ thế tại quê nhà. Theo luật lệ thời bấy giờ, sĩ tử có tang không được đi thi. Tuy nhiên, tin dữ đến quá gấp, trường thi đã vào giờ chót, không ai được ra cũng không ai được vào.
Nhận thấy triển vọng của Phan Hiển Đạo, Phan Thanh Giản quyết định giấu nhẹm tin dữ, chờ thi xong mới báo. Khi biết tin mẹ mất, ông lập tức viết tờ sớ xin tội gửi Nội các rồi vội vã trở về quê chịu tang. Kết quả kỳ thi, Phan Hiển Đạo đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ, trở thành Tiến sĩ trẻ tuổi nhất khoa, mới 27 tuổi.
Tuy nhiên, đến ngày truyền lô đãi yến, ông vắng mặt vì đang cư tang. Vua Tự Đức xem tờ sớ, thấy thư báo tang gửi trước ngày thi mà ông vẫn dự thi, rồi mới bỏ yến tiệc, liền nổi giận phê: “Hà hữu Phan Hiển Đạo vi tử như thử, vi thần nhược hà?” - nghĩa là Phan Hiển Đạo làm con như thế thì làm tôi thế nào?

Một đời Tiến sĩ, trọn kiếp oan khiên
Dù vậy, sau cơn giận, vua cũng nguôi, sai sứ giả đem áo mũ và truyền chỉ cho quan Bố chánh Định Tường chủ lễ thọ phong Tiến sĩ cho ông. Song vinh dự lớn lao ấy lại đi kèm lời phê khắc nghiệt, khiến ông mang nỗi ám ảnh suốt đời. Đọc lời phê, ông từng ngất xỉu rồi sinh bệnh, điều đó như một vết hằn trong tâm can.
Sau ba năm cư tang, bệnh tình chưa dứt, nhưng Định Tường lại thiếu chức Đốc học. Các quan đầu tỉnh làm sớ xin bổ dụng ông. Sau thời gian hậu bổ, Phan Hiển Đạo được cử làm Đốc học Định Tường. Tại đây, ông vừa lo việc trường ốc, vừa truyền dạy âm nhạc cho học trò, trong đó có những tên tuổi nổi tiếng như Học Lạc, Nhiêu Ninh, Nhiêu Phang. Nhân cách, phong thái và tài năng của ông được nhiều sĩ tử nể trọng.
Năm 1859, khi giặc Pháp tấn công thành Gia Định, ông cùng các quan đầu tỉnh Định Tường gấp rút mộ quân lên ứng cứu, được triều đình thăng hàm Thương biện Tỉnh vụ. Nhưng sức khỏe yếu, ông buộc phải dâng sớ xin từ chức. Đến tháng 4/1861, Pháp chiếm Định Tường, rồi lan ra các huyện Kiến Hưng, Kiến Hòa, Kiến Đăng. Nhiều anh hùng hào kiệt rút về lập đồn Tân Thành Mỹ Quí tiếp tục kháng chiến.
Lúc này, Phan Hiển Đạo đang dưỡng bệnh ở chợ Giữa. Biết ông là quan “cựu trào”, giặc tìm cách chiêu dụ, sai Tôn Thọ Tường đến tận nhà, lấy cớ mời đi xem hát, tặng áo mũ, cờ biểu, rồi “mời” ông làm Đốc học Định Tường. Phan Hiển Đạo lấy lý do bệnh, kiên quyết từ chối.

Thực dân Pháp thâm độc không dừng lại, liên tiếp tung tin thất thiệt rằng ông đã hợp tác. Ngay cả trưởng đoàn lãnh sự nhà Nguyễn ở Gia Định là Nguyễn Thành Ý cũng báo cáo về triều rằng ông đã ra làm quan cho giặc. Hoảng sợ, Phan Hiển Đạo viết thư minh oan gửi Kinh lược sứ Phan Thanh Giản ở Vĩnh Long. Nhưng thay vì thấu xét, bênh vực, Phan Thanh Giản phê tám chữ cay nghiệt: “Thất thân chi nữ, hà dĩ vi trinh” (nghĩa là người con gái đã bị thất thân, sao còn giữ được tiết trinh).
Câu phê như nhát dao cuối cùng, khiến Phan Hiển Đạo uất nghẹn. Bản thân từng lỡ nhận quà từ giặc, ông càng hổ thẹn, cuối cùng tìm đến cái chết. Có tài liệu ghi ông thắt cổ trên mộ cha, có tài liệu nói ông uống thuốc độc. Năm 1864, ông qua đời khi mới 42 tuổi.
Cái chết của ông chưa dừng lại ở nỗi bi thương. Phan Thanh Giản còn báo cáo lên triều, xin xóa tên trong sổ Tiến sĩ, đục bỏ tên trên bia, thu hồi quan hàm. Sách “Đại Nam thực lục” chép: Vua Tự Đức cho rằng Phan Hiển Đạo từng mộ quân đánh Tây dương, còn Phan Thanh Giản chủ hòa, nên lời buộc tội chưa hẳn chính xác. Nhà vua lệnh cho Lại Bộ hai tỉnh An Giang và Vĩnh Long điều tra, nhưng các quan địa phương cũng báo cáo bất lợi cho Phan Hiển Đạo. Cuối cùng, triều đình chuẩn cho truy đoạt chức hàm, bỏ tên trong sổ Tiến sĩ, đục bỏ tên trên bia Văn Miếu.

Sĩ phu Nam Kỳ trong bi kịch thời cuộc
Tuy nhiên, nhìn từ nhiều nguồn tư liệu khác, hình ảnh Phan Hiển Đạo lại không hoàn toàn như thế. Năm 1861, sau khi Pháp chiếm Định Tường, ông lui về ẩn dật để tỏ rõ thái độ bất hợp tác. Nhiều lần bị Tôn Thọ Tường chiêu dụ, ông kiên quyết từ chối. Năm 1864, để tỏ lòng tiết liệt với đất nước, ông uống thuốc độc quyên sinh.
Trên mộ ở Vĩnh Kim vẫn còn dòng chữ: “Niên Pháp lang khấu, quốc thống vong công bất khuất/ Tử tán ư Vĩnh Kim Đông chi hương”. Trong “Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam”, cũng ghi Phan Hiển Đạo từng dạy học ở Mỹ Tho, có lần đến gặp Phan Thanh Giản để bàn việc nước, nhưng bị phê câu nói cay nghiệt, từ đó uất ức tìm đến cái chết. Sách “Định Tường xưa” lại kể thêm câu chuyện thi cử và lời phê của vua Tự Đức, coi đó là nguyên nhân sâu xa khiến ông mang nỗi oan khuất cả đời.
Cuộc đời Phan Hiển Đạo vì vậy trở thành minh chứng cho sự phức tạp của lịch sử. Ông là người vừa tài hoa, vừa gắn bó với khoa bảng và âm nhạc, từng mộ quân đánh giặc, nhưng lại bị cuốn vào vòng xoáy nghi kỵ và hiểu lầm. Một bên là thực dân Pháp với những chiêu trò dụ dỗ, một bên là triều đình với những phán xét khắc nghiệt, ông rơi vào bi kịch.
Cái chết của ông đến nay vẫn để lại nhiều tranh luận. Có người cho rằng ông chịu hàm oan, có người viện dẫn bằng chứng bất lợi. Lại có người đánh giá lời luận tội của vua Tự Đức thực chất chỉ mang tính răn đe, cảnh cáo quần thần, hơn là thực sự kết tội Phan Hiển Đạo. Bởi lẽ, ông vốn là một nghệ sĩ tài hoa, chỉ yêu thích lời ca tiếng hát, không ham danh vọng, sau cùng cũng đã tự nguyện từ chức. Việc bị truy đoạt quan hàm, xóa tên trong sổ Tiến sĩ hay đục bia đá, có lẽ với ông ở suối vàng cũng chẳng còn bận tâm.
Nhưng nhìn từ góc độ nhân văn, Phan Hiển Đạo vẫn là hình ảnh một sĩ phu Nam Kỳ trong buổi giao thời, tài hoa mà bạc mệnh, kiên cường mà oan khuất. Có lẽ vì cảm thông với số phận ấy, bài minh trong văn bia vẫn để lại đoạn đầy ý nghĩa:
“Trung vi mỹ đạo thị lý. Trinh nhi tử gian giả, chỉ sử dĩ thạch dĩ ký, diệc kỷ vi thần quỷ hề!” - nghĩa là: “Lấy trung làm đạo tốt, là sự tích. Sạch mà chết nhưng bị tiếng gian, thì chỉ có cách khắc ghi trên đá, để làm gương cho kẻ làm tôi vậy”.
Đó là sự minh oan âm thầm của hậu thế, cũng là lời khẳng định, dù bị cuốn vào oan khiên thời cuộc, nhân cách của Phan Hiển Đạo vẫn sáng trong như ngọc. Ngày nay, Mỹ Tho có một con đường mang tên Phan Hiển Đạo, như sự ghi nhận và tri ân. Dù sử sách chính thống từng xóa bỏ, nhân dân địa phương vẫn nhớ đến ông như một người tiết liệt, chọn cái chết để giữ lòng trung trinh.
Trong thời thế mà lòng trung trinh và kẻ bán nước chỉ cách nhau một tờ giấy mỏng, thì chính Phan Thanh Giản - người liên đới tới nỗi oan khuất của Phan Hiển Đạo - sau này cũng gặp nỗi oan bán nước khi để mất sáu tỉnh Nam Kỳ vào tay quân Pháp thông qua hòa ước Nhâm Tuất năm 1862.
Thậm chí, nỗi oan của Phan Thanh Giản còn nặng nề hơn cả Phan Hiển Đạo khi vua Tự Đức phán: “Xét phải tội chế, chưa đủ che được tội” và nghi án “truy đoạt lại chức hàm và đẽo bỏ tên ở bia Tiến sĩ, để mãi cái án trảm giam hậu”. Năm 1867, Phan Thanh Giản kết thúc đời mình bằng 17 ngày nhịn ăn và chén thuốc độc.
Câu chuyện về Tiến sĩ Phan Hiển Đạo và Phan Thanh Giản vừa là một nỗi thương cảm, vừa là lời nhắc nhớ rằng lịch sử không chỉ được viết bởi chiến thắng, mà còn bởi những số phận con người, đôi khi bị hiểu nhầm, bị gạt ra bên lề nhưng vẫn để lại ánh sáng của sự thật. Và ánh sáng ấy, trong trường hợp Phan Hiển Đạo, chính là sự kết hợp giữa tài năng khoa bảng, tâm hồn nghệ sĩ, cùng một cái chết bi tráng để giữ gìn nhân cách.
Theo sách “Đại Nam thực lục”, vua Tự Đức từng cho rằng Phan Hiển Đạo là người có công mộ quân chống lại quân Tây dương, trong khi Phan Thanh Giản lại chủ trương hòa nghị. Nhà vua nhận thấy ý kiến này “chưa chắc đã đúng” nên lệnh tiến hành điều tra cẩn thận. Không ngờ, kết quả báo cáo của các quan ở hai tỉnh An Giang và Vĩnh Long lại trùng khớp với sớ tấu của Phan Thanh Giản. Sau cùng, vua Tự Đức kết luận: “Danh tiết của một sĩ phu, ta rất lấy làm thương tiếc, nên cần phải xét rõ tâm tích mới được. Lại giao cho đình thần xét lại, cũng như Bộ bàn”. Sau đó, vua chuẩn y truy đoạt chức hàm, gạch tên Phan Hiển Đạo trong sổ Tiến sĩ và đục bỏ tên ông trên bia đá đề danh.