Nhưng 6/9 điểm hiện chưa có điện lưới, sóng điện thoại phập phù. Nhiều lớp học đã phải diễn ra trong ánh sáng yếu của những cây nến.
Những người vượt lên thách thức
Thầy Lê Quang Tùng – Hiệu trưởng Trường Tiểu học Trung Lý 1 cho biết đây là xã đặc biệt khó khăn. Dù đã bước sang thời đại 4.0 nhưng nhiều thôn bản không điện lưới, mù chữ, tảo hôn, hôn nhân cận huyết chưa được xóa bỏ hoàn toàn. Đây không chỉ là thách thức với chính quyền địa phương mà các nhà trường, thầy cô giáo cũng hàng ngày phải đối diện.
Trong số 6 điểm trường lẻ của trường chưa có điện lưới thì có tới 3 điểm trường giáo viên (GV) phải ở lại điểm trường dù cơ sở vật chất thiếu thốn, sinh hoạt bằng điện năng lượng…
Theo thầy Phạm Văn Mạnh, trường cách trung tâm xã 14km. Đường vào điểm trường có 8km trải nhựa, 6km đường đất. Vào mùa mưa, những chiếc xe máy khỏe đến mấy cũng không thể vượt qua đoạn đường này. Gặp trời mưa GV thường để lại xe và lội bộ vào trường.
Do điều kiện, môi trường sống khắc nghiệt nên việc phân công GV vào dạy học ở điểm trường Suối Hộc buộc nhà trường phải chọn những thầy giáo trẻ tuổi và có sức khỏe tốt. Họ thường ở lại điểm trường 1 - 2 tuần, thậm chí cả tháng (nếu không có việc cần) mới về nhà.
Tuy nhiên, trăn trở hơn cả với thầy Phạm Văn Mạnh, Hà Văn Luân khi dạy học tại điểm trường Suối Hộc là vấn đề không điện lưới. Từ dạy học tới cuộc sống, sinh hoạt phải phụ thuộc vào điện năng lượng mặt trời nên rất bị động.
Điểm trường Suối Hộc đã nhận được hỗ trợ 1 máy điện năng lượng. Tuy nhiên như vậy cũng chỉ đủ thắp sáng 1 - 2 bóng đèn cho lớp học vào ban ngày. Ngoài ra, không thể triển khai nhữngthiết bị dạy học máy tính, máy chiếu, màn hình tivi (nếu có).
Mùa hè, nóng như đổ lửa nhưng GV và HS phải chịu đựng. Mùa đông, nếu khép cửa tránh gió lùa thì lớp lại thiếu ánh sang. Bởi điện năng lượng mặt trời không đủ đáp ứng điện cho lớp học thắp tăng lên 4 - 5 bóng điện.
Buổi tối, trong 2 căn phòng công vụ của GV ánh sáng cũng phụ thuộc vào thời tiết và thiết bị tích điện. “Điện năng lượng thường chỉ đủ thắp 1 - 2 bóng đèn. Vào mùa hè nắng gắt, lượng điện ngoài thắp 2 bóng đèn còn có thể sử dụng thêm chiếc quạt máy nhỏ. Tivi, đài, máy tính, máy chiếu… không bao giờ GV nghĩ tới. Bởi dẫu có cũng không thể sử dụng do điện quá yếu…” - thầy Mạnh nói.
Thầy Mạnh và thầy Luân mỗi tuần chỉ đi chợ một lần hoặc mang thực phẩm tươi từ dưới xuôi lên. 2 - 3 ngày đầu tuần 2 thầy ăn thịt cá, 4 ngày cuối tuần ăn đồ khô như: Lạc, trứng,cá khô, đồ hộp. Sở dĩ “đầu tuần ăn tươi cuối tuần ăn khô” bởi chẳng thức ăn nào để được dài ngày trong điều kiện thời tiết nắng nóng, ẩm nồm.
“Nhiều khi, mua được miếng thịt lợn ngon, con cá tươi về rán, luộc… ăn chưa hết và để dành thì đã bị hỏng. Thế nhưng, chém to kho mặn mãi cũng chẳng thể nuốt nổi…” - thầy Mạnh chia sẻ.
Cô giáo Thao Thị Mỵ dạy và ở lại điểm trường Ma Hác (Trường Tiểu học Trung Lý 1) cho biết: “Gia đình em ở xa nên ở lại cuối tuần mới về, cô Mai Thị Thắng nhà gần sáng đi chiều về. Ban ngày có HS và đồng nghiệp cảm thấy rất vui nhưng tối đến còn lại mình em trong nhà công vụ rộng hơn 10m. thắp sáng bằng 2 ngọn đèn leo lét đôi khi em thấy buồn, sợ và mong thời gian trôi đi thật nhanh.
Nếu có điện, được xem tivi, nghe đài hay vào máy tính lên mạng… có lẽ cuộc sống đỡ buồn tẻ hơn. Không điện lại ở 1 mình nên cứ sẩm tối em đóng cửa cài then vì ở một mình. Đèn năng lượng lờ mờ muốn soạn bài, xem vở HS, đọc sách… em phải tăng cường thêm cây nến. Do đó, GV cắm bản cũng thường ngủ sớm hơn bởi mọi sinh hoạt thường chìm trong bóng tối”.
“3 tuần nay máy tích điện năng lượng mặt trời tại điểm trường Ma Hác bị hỏng nên sinh hoạt chủ yếu dựa vào ánh nến. Sau giờ dạy học, em phải tranh thủ làm thật nhanh một số công việc như soạn bài, đọc tài liệu, xem lại vở HS, giặt quần áo, nấu nướng. 9 giờ tối là cả bản như chìm vào giấc ngủ…” - cô Mỵ nói.
Cũng theo chia sẻ của cô Mỵ, tại điểm trường Ma Hác sóng điện thoại cũng chập chờn. Cô và đồng nghiệp phải mang điện thoại để ở điểm cao nhất để “hứng” sóng và thi thoảng kiểm tra. Muốn nói chuyện, nhắn tin với gia đình, bạn bè GV phải đứng đúng điểm có sóng. Do đó, những cuộc điện thoại hỏi thăm, trao đổi, chia sẻ giữa cô Mỵ và gia đình, bạn bè cũng hạn chế.
Ước mong cho ngày mai
Thầy Lê Quang Tùng – Hiệu trưởng Trường Tiểu học Trung Lý 1 cho rằng, khó khăn trong việc nâng cao chất lượng giáo dục của trường bởi số điểm trường lẻ nhiều, đầu tư thiết bị chưa đồng bộ và đa số chưa có điện lưới. Trong khi đó, có hơn 300 HS từ lớp 1 – 5 đang học tại điểm trường. 6/9 điểm lẻ GV không thể ứng dụng CNTT vào dạy học vì không có điện.
Cô Thao Thị Mỵ trăn trở, năm học 2020 - 2021 đã triển khai CTGDPT mới đối với lớp 1 nhưng đến nay chưa một lần GV được triển khai ứng dụng CNTT vào dạy học. GV vẫn dùng hình ảnh, tranh vẽ để hỗ trợ HS mau hiểu bài. Năm học tới tiếp tục triển khai CTGDPT mới ở lớp 2, nếu tiếp tục dạy và học “chay” thì chắc chắn hiệu quả không như mong muốn.
“Cuộc sống của không có điện sinh hoạt dẫu vất vả thì GV vẫn cố gắng khắc phục vượt qua. Song nhìn cảnh học trò mướt mát mồ hôi, lớp học thiếu ánh sáng, không quạt vào mùa hè, không đèn sưởi vào mùa đông… thấy xót xa vô cùng” – cô Mỵ bày tỏ.
Thầy Phạm Văn Mạnh cho rằng, trong điều kiện điện lưới chưa thể có, thì GV tại điểm trường lẻ đều mong muốn được hỗ trợ thêm thiết bị điện năng lượng mặt trời. Như vậy, các lớp học sẽ đảm bảo ánh sáng, trời nóng có thể sử dụng quạt, GV có thể đổi mới, ứng dụng CNTT vào dạy học...
Đầy dẫy những khó khăn thách thức trong cuộc sống, nhưng những thầy cô giáo đã và đang dạy học tại các điểm trường không điện, không sóng điện thoại… vẫn lặng thầm, kiên trì bám trụ trường, lớp. Dẫu hoàn cảnh sống, điều kiện dạy học còn thiếu thốn nhưng với họ được cống hiến và tận cùng với nghề giáo chính là hạnh phúc.