Cùng hãng thông tấn Novosti khám phá quá trình phát triển bom nguyên tử của Liên Xô, ý nghĩa quân sự và địa chính trị của nó, cùng một số huyền thoại xung quanh chương trình này.
Được trang bị sức nổ tương đương khoảng 22 kt, RDS-1 nặng 4,7 tấn được sử dụng trong cuộc thử nghiệm là vũ khí sẵn sàng chiến đấu được thiết kế để thả từ máy bay ném bom chiến lược Tupolev Tu-4.
Khoảng 30 quả RDS-1 đã được sản xuất vào giữa những năm 1950 sau cuộc thử nghiệm thành công vào ngày 29 tháng 8 năm 1949.
Cuộc thử nghiệm đã chấm dứt sự độc quyền hạt nhân của Mỹ, tạo ra sự cân bằng rất cần thiết trong chính trị quốc tế, kiềm chế Mỹ và châu Âu, ngăn chặn Chiến tranh Lạnh trở nên nóng bỏng và cuối cùng, cung cấp cho nước Nga hiện đại khả năng đáp trả chắc chắn trước các cuộc xâm lược quân sự quy mô lớn.
Vào cuối Thế chiến thứ hai, Moscow "nhận ra rằng mối đe dọa hạt nhân ban đầu xuất phát từ Đức đang chuyển thành mối đe dọa từ đồng minh cũ của chúng ta, Mỹ", Tiến sĩ Lev Ryabev, cựu giám đốc ngành công nghiệp hạt nhân của Liên Xô từ năm 1986-1989, nói.
"Người Mỹ hiểu rằng họ đang sở hữu một 'vũ khí tuyệt đối' mà qua đó họ có thể ra lệnh cho thế giới bất kỳ điều kiện nào", Tiến sĩ Lev Ryabev cho biết thêm.
Ông Ryabev nhớ lại, điều đó đã dẫn đến việc đẩy nhanh nghiên cứu hạt nhân của Liên Xô thông qua việc thành lập một Ủy ban đặc biệt hùng mạnh do người đứng đầu Bộ Dân ủy Nội vụ Liên Xô (NKVD) Lavrentiy Beria vào tháng 8 năm 1945.
Cuộc thử nghiệm năm 1949 khiến CIA bất ngờ. Các nhà phân tích của cơ quan này dự đoán quả bom hạt nhân đầu tiên của Liên Xô chỉ xuất hiện vào đầu đến giữa những năm 1950, đánh giá thấp các nhà khoa học của Liên Xô, kỹ năng tổ chức của Beria và việc Moscow sở hữu các mỏ quặng uranium chất lượng cao.
Nhiều bài viết đã viết về sự thâm nhập của điệp viên Liên Xô vào Dự án Manhattan do Mỹ đứng đầu, một số nhà sử học thậm chí còn cho rằng Liên Xô "không thể" chế tạo quả bom nếu không có thông tin tình báo mà họ nhận được.
Điều này bỏ qua nghiên cứu cơ bản về hạt nhân và hóa học phóng xạ của các nhà khoa học Liên Xô từ những năm 1920.
Nhà vật lý Liên Xô Fritz Lange đã gửi một đề xuất tới chính quyền để tạo ra "đạn dược urani" mới có sức mạnh chưa từng có vào năm 1940 - hai năm trước khi Dự án Manhattan được tổ chức.
Đến đầu những năm 1940, Liên Xô đã tập hợp được hàng chục nhà khoa học nguyên tử đẳng cấp thế giới, từ Igor Kurchatov và Yuli Khariton đến Isaak Kikoin, Andrei Bochvar, Igor Tamm và nhiều người khác.
Ủy ban Quốc phòng Nhà nước Liên Xô đã phê duyệt công trình về những gì sẽ trở thành chương trình hạt nhân của Liên Xô vào tháng 9 năm 1942, vào thời điểm đỉnh cao của Trận chiến Stalingrad.
"Chúng tôi thực sự may mắn khi có một người… đã chịu trách nhiệm và dẫn dắt chúng tôi vượt qua những thời khắc khó khăn nhất", ông Ryabev nhớ lại, ám chỉ đến vai trò quan trọng của Kurchatov với tư cách là người đứng đầu chương trình hạt nhân của Liên Xô.
"Có vẻ như nước Đức dưới thời Hitler đã có mọi thứ cần thiết để thành công trong lĩnh vực hạt nhân, bắt đầu từ thực tế là các nhà khoa học xuất sắc, từng đoạt giải Nobel của nước này đã có những khám phá vĩ đại.
Người Đức biết cách tạo ra than chì tinh khiết và urani tinh khiết, họ nghiên cứu máy ly tâm, nước nặng, v.v. Họ đang tiến quân trên một mặt trận khá rộng.
Nhưng những khám phá khoa học của họ không tập trung, không có nhà lãnh đạo vĩ đại nào chịu trách nhiệm hoàn toàn… Chúng tôi đã có một nhà lãnh đạo như vậy ở Liên Xô – Igor Vasilyevich Kurchatov", ông Ryabev nhấn mạnh.
Trong khi Liên Xô có con đường độc lập riêng để chế tạo bom hạt nhân, hoạt động gián điệp hạt nhân đã cung cấp cho Moscow thông tin quan trọng về những nỗ lực của nước ngoài trong lĩnh vực này.
Cambridge Five, Klaus Fuchs, Rosenbergs và nhiều người khác đã mạo hiểm sự nghiệp và mạng sống của mình để cung cấp cho Moscow thông tin quan trọng về các diễn biến hạt nhân của nước ngoài, từ các tài liệu và ảnh được phân loại, đến các chi tiết về các khía cạnh chính trị, ngoại giao và quân sự của vấn đề hạt nhân của Mỹ.
Đó là lý do tại sao khi Tổng thống Mỹ Truman thông báo với Joseph Stalin, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô giai đoạn (1922–1952) rằng Mỹ đang sở hữu "một loại vũ khí mới có sức hủy diệt khác thường", Stalin tỏ ra không mấy quan tâm, thản nhiên trả lời rằng ông hy vọng Mỹ sẽ "sử dụng nó một cách hiệu quả để chống lại phát xít Nhật Bản".
Vào thời điểm đó, chương trình hạt nhân của Liên Xô đã diễn ra sôi nổi và nhận được sự giúp đỡ từ tình báo.
Nước Nga hiện đại tự hào về những bộ óc khoa học vĩ đại của mình, và không ngủ quên trên chiến thắng của Liên Xô khi nói đến những phát triển mới trong vật lý thực nghiệm.
Hiện tại, các nhà khoa học tại Trung tâm hạt nhân Sarov đang nghiên cứu UFL-2M 'Tsar Laser' – một hệ thống lắp đặt khổng lồ 192 chùm tia dự kiến sẽ trở thành laser mạnh nhất thế giới.
Khi thành công, Tsar Laser sẽ chứng minh được tính hữu ích cho nghiên cứu về mật độ năng lượng cao và vật lý thiên văn, cũng như việc tạo ra một thế hệ vũ khí hạt nhân hoàn toàn mới.