Ký ức êm đềm
Toàn bộ đoạn trích, nhân vật tôi không đi theo lối kể lại một sự việc, một biến cố nào đó mà đó là dòng tâm tư và dòng kí ức êm đềm trong những khoảnh khắc về làng quê, về hình ảnh hai cây phong thân thuộc.
Bối cảnh của truyện là làng Ku-ku-rêu nằm ở ven chân núi, trên một cao nguyên tươi đẹp. Hình ảnh hai cây phong được nhân vật tôi giới thiệu qua cách nói giàu hình ảnh: “Tôi biết chúng từ thuở bắt đầu biết mình”; “…chúng luôn hiện ra trước mắt hệt như những ngọn hải đăng đặt trên núi”; “…khi xuống xe lửa đi qua thảo nguyên về làng, tôi đều coi bổn phận đầu tiên là từ xa đưa mắt tìm hai cây phong thân thuộc ấy”.
Với nhân vật tôi và làng Ku-ku-rêu, hai cây phong trở nên gắn bó tự bao giờ, để mỗi khi đi xa trở về làng, hình ảnh ấy luôn là điểm tìm đến đầu tiên của tâm hồn với bao nhung nhớ, yêu thương và gần gũi.
Khi xa hình ảnh thân thương ấy, để lại trong tâm hồn nhân vật tôi “nỗi buồn da diết”, sự mong ngóng trở về để gặp lại với sự háo hức, nóng lòng: “Ta sắp được thấy chúng chưa, hai cây phong sinh đôi ấy? Mong sao chóng về tới làng, chóng lên đồi mà đến với hai cây phong!”.
Đặc biệt, trong cảm nhận của nhân vật tôi, sự nhận biết về hai cây phong được bắt đầu từ khi mình nhận thức được mình. Mỗi khi đứng dưới gốc cây phong, tâm hồn giàu chất thơ của nhân vật tôi như hòa điệu với tiếng reo của lá phong, như cảm nhận được lời thì thầm và ý nghĩ của cây: “Rồi sau đó cứ đứng dưới gốc cây để nghe mãi tiếng lá reo cho đến khi say sưa ngây ngất”.
Hai cây phong có tâm hồn
Không phải là cách quan sát thiên nhiên thông thường, nhân vật tôi cảm nhận hai cây phong ở nhiều cung bậc và phát hiện ra những điều kỳ diệu về chúng: “Trong làng tôi không thiếu gì các loại cây, nhưng hai cây phong này khác hẳn – chúng có tiếng nói riêng và hẳn phải có một tâm hồn riêng, chan chứa những lời ca êm dịu”.
Những tín hiệu phát ra từ hai cây phong nếu bằng sự cảm nhận thông thường, có lẽ rất khó để thấy và đoán biết đó là tiếng nói riêng, là tâm hồn riêng của loài cây. Đó là sự khơi dòng cho cảm xúc mang tính khám phá chiều sâu bên trong hết sức bí ẩn và tươi đẹp của hai cây phong.
Từ sự lắng nghe sự chuyển động của cành lá: “Dù ta tới đây vào lúc nào, ban ngày hay ban đêm, chúng cũng vẫn nghiêng ngả thân cây, lay động lá cành, không ngớt tiếng rì rào theo nhiều cung bậc khác nhau”, nhân vật tôi đã chuyển hóa thành sự tưởng tượng vô cùng phong phú trong sự so sánh, ví von độc đáo: “Có khi tưởng chừng như một làn sóng thủy triều dâng lên vỗ vào bãi cát, có khi lại nghe như một tiếng thì thầm thiết tha nồng thắm truyền qua lá cành như một đốm lửa vô hình, có khi hai cây phong im bặt một thoáng rồi khắp lá cành lại cất tiếng thở dài một lượt như thương tiếc người nào…”.
Hai cây phong trước phong ba bão táp vẫn ngời lên sức mạnh của sự chống chọi, đứng vững trên đồi cao: “Và khi mây đen kéo đến cùng với bão dông, xô gãy cành, tỉa trụi lá, hai cây phong nghiêng ngả tấm thân dẻo dai và reo vù vù như ngọn lửa bốc cháy rừng rực”.
Trường liên tưởng từ cây lá sang sóng thủy triều, đốm lửa, tiếng thở dài đó là sự cảm nhận cây phong có chiều sâu, ở nhiều cung bậc của nhân vật tôi, đã biến hình ảnh thiên nhiên trở thành một sinh thể có tâm hồn, có sức mạnh nội lực đang tỏa ra mãnh liệt tự bên trong. Đó là sự khám phá cây phong bằng sự linh cảm, sự tưởng tượng phong phú ẩn sâu trong từng cành cây, kẽ lá, từng thớ vỏ và như thấm sâu vào từng thớ gỗ.
Phải thực sự gắn bó với làng quê, với cảnh vật thân thuộc đến thế nào mới có sự hòa điệu tâm hồn và những cảm xúc vô cùng tinh tế với hai cây phong như thế.
Sức sống kỳ diệu
Hình ảnh hai cây phong đã đưa nhân vật tôi trở về miền kí ức xa xăm mà vô cùng tươi đẹp, hình ảnh ấy luôn có sức sống kỳ diệu trong tâm hồn con người để rồi khi xa làng, cây phong luôn nhắc nhớ nhân vật tôi về nơi ấy, nơi những đứa trẻ quê ngày nào để lại tuổi thơ dưới tán lá xanh thẳm của hai cây phong như “một mảnh vỡ của chiếc gương thần xanh…”.
Khơi dòng cảm xúc từ hai cây phong, dòng tâm tư của nhân vật tôi bỗng trở nên ấm áp đến lạ thường khi thức dậy những kí ức tuổi thơ êm đềm.
Đó là những lần “reo hò, huýt còi ầm ĩ chạy lên đồi là hai cây phong khổng lồ lại nghiêng ngả đung đưa như muốn chào mời chúng tôi…”, là thú vui trèo lên hai cây phong bắt tổ chim “Chúng tôi cứ leo lên cao nữa, cao nữa…”, là sự vỡ òa đầy thích thú trong cảm nhận của đôi mắt tò mò khám phá của tuổi thơ khi trèo lên ngọn cây phong cao vút: “Bỗng có một phép thần thông nào vụt mở ra trước mắt chúng tôi cả một thế giới đẹp đẽ vô ngần của không gian bao la và ánh sáng”.
Mỗi lúc ngồi lặng thinh, vô tư lự trên cành cây phong cũng là lúc cả thế giới tươi đẹp như ùa vào tâm hồn nhân vật tôi và những đứa trẻ, đó là “nơi xa thẳm biêng biếc của thảo nguyên…”, là “những dòng sông lấp lánh như những sợi chỉ bạc mong manh”.
Và ở đó, tâm hồn những đứa trẻ có bao liên tưởng đầy thú vị từ cây phong “lắng nghe tiếng gió ảo huyền, và tiếng lá cây đáp lại lời gió, thì thầm to nhỏ về những miền đất bí ẩn đầy sức quyến rũ lẩn sau chân trời xa thẳm biêng biếc kia”.
Tiếng của cây lá như reo lên trong tâm hồn nhân vật tôi và những đứa trẻ nơi làng quê ngày đó, nhen lên trong chúng sự tưởng tượng về những miền đất xa thẳm. Phải chăng, đó là những ước mơ còn như mới được khơi lên mà chưa rõ hình thù về một ngày mai, chúng sẽ tạm biệt làng quê nhỏ bé để đến với những chân trời rộng lớn.
Từ miền kí ức lấp lánh trong tâm hồn nhân vật tôi, một hình ảnh rất đỗi ấm áp, thiêng liêng được gợi lên theo dòng tâm tư. Hình ảnh ấy được dấy lên qua hàng loạt câu hỏi mà thuở ấy bản thân không nghĩ đến: “Ai là người đã trồng hai cây phong trên đồi này? Người vô danh ấy đã ước mơ gì, đã nói những gì khi vùi hai gốc cây xuống đất, người ấy đã ấp ủ những hy vọng gì khi vun xới chúng nơi đây, trên đỉnh đồi cao này?”.
Những câu hỏi ấy cứ xoáy sâu vào miền kí ức xa thẳm để rồi, trong dòng tâm tư, nhân vật tôi trở về với hình ảnh thầy Đuy - sen kính yêu, người đã mang hai cây phong về trồng ở làng, gieo ước mơ cho bọn trẻ nơi đây.
Cây phong - người thầy – làng quê
Cốt truyện không hề có những biến cố, những xung đột, ít nhân vật, chủ yếu là dòng tâm tư của nhân vật tôi. Tình tiết và diễn biến của truyện nhẹ nhàng mà thấm thía, giọng điệu mềm mại, chậm rãi, ngân dài khiến cho dòng kí ức của nhân vật tôi êm đềm, đằm ngọt, gợi lên bao điều thiêng liêng trở thành “gia tài” trong hành trang chinh phục ước mơ của nhân vật tôi.
Truyện sử dụng phép so sánh kết hợp với nhân hóa độc đáo khi miêu tả hình ảnh hai cây phong: “Như những ngọn hải đăng đặt trên núi”; “như một đốm lửa vô hình”;“như một ngọn lửa bốc cháy rừng rực”…
Các phép so sánh cộng với nhân hóa làm cho hình ảnh hai cây phong trở nên sinh động, như một sinh thể có hồn, có tính cách. Phép ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, từ hình ảnh cây liên tưởng đến thủy triều, lửa đã gợi lên sức sống mãnh liệt của hai cây phong.
Trong mỗi đoạn, việc sử dụng những câu văn dài, trong sáng như ngân dài cảm xúc, nhấn mạnh mức độ cảm nhận từng hình ảnh, chi tiết, khiến cho sự cảm nhận về hai cây phong vừa gần gũi, vừa tinh tế, sâu lắng.
Đoạn trích “Hai cây phong” nói riêng và truyện ngắn “Người thầy đầu tiên” nói chung đã có sức truyền cảm lớn trong lòng độc giả, tạo nên sức cuốn hút, sự đồng điệu nhẹ nhàng mà sâu lắng.
Người đọc có sự đồng cảm với nhân vật tôi, như được hòa mình vào miền kí ức về nơi tuổi thơ, về những hình ảnh thiêng liêng hai cây phong - người thầy – làng quê.