Chương trình có sự tham gia của các khách mời:
* GS.TS Đinh Quang Báo - nguyên Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm Hà Nội, Phó Giám đốc Kĩ thuật Dự án Hỗ trợ đổi mới giáo dục phổ thông (RGEP)
* Cô giáo Chu Thị Minh Thảo - Trường tiểu học Thực nghiệm Victory.
Sau gần một học kỳ (năm học 2020 – 2021) triển khai thực hiện Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 đối với lớp 1 - cho thấy, cơ bản giáo viên đã tiếp cận được yêu cầu đổi mới; việc dạy – học đã đi vào nề nếp.
Trước đây, SGK được coi là “pháp lệnh”, yêu cầu nhà trường triển khai thực hiện, bây giờ cả nước thực hiện một Chương trình Giáo dục phổ thông thống nhất nhưng mềm dẻo và linh hoạt. Trên tinh thần ấy, chương trình là “gốc”, SGK có vai trò là tài liệu dạy học nhằm hỗ trợ thầy - trò trong quá trình dạy – học. Mục tiêu là định hướng phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh.
Để triển khai, thực hiện Chương trình Giáo dục phổ thông mới thực sự có hiệu quả, chất lượng; nhà trường, cụ thể là hiệu trưởng cần hỗ trợ, tạo điều kiện cho giáo viên phát huy quyền chủ động, sáng tạo và tự chủ trong dạy học. Qua đó giúp giáo viên có tâm thế sẵn sàng, tự tin để bắt nhịp cùng Chương trình giáo dục phổ thông mới.
Đến với Chương trình giao lưu trực tuyến, các khách mời sẽ trao đổi, chia sẻ với quý bạn đọc về những vấn đề nêu trên. Ngay từ bây giờ, bạn đọc có thể gửi câu hỏi tới các khách mời của chương trình tại đây, hoặc gửi email của Báo Giáo dục và Thời đại: gdtddientu@gmail.com, hoặc tương tác qua facebook: www.fb.com/giaoducthoidai.
Cô giáo Chu Thị Minh Thảo
Trường tiểu học Thực nghiệm Victory
GS.TS Đinh Quang Báo
Nguyên Hiệu trưởng ĐH Sư phạm Hà Nội, Phó Giám đốc Kĩ thuật Dự án Hỗ trợ đổi mới giáo dục phổ thông (RGEP)
Ông Thái Văn Tài
Vụ trưởng Vụ Tiểu học (Bộ GD&ĐT)
Cô giáo Chu Thị Minh Thảo
Chào bạn, Chương trình giáo dục Phổ thông mới có nhiều khác biệt so với chương trình cũ, yêu cầu giáo viên cần linh hoạt và chủ động hơn trong quá trình giảng dạy.
Giáo viên không phụ thuộc vào giáo trình mà luôn cải tiến, làm mới giáo án, không lệ thuộc nhiều vào sách mà cần vận dụng thực tiễn để truyền đạt kiến thức cho học sinh. Với mỗi tiết học, giáo viên nên theo tiêu chí: Hướng dẫn, giao việc để học sinh tự làm việc và giải quyết vấn đề. Để phát huy được tối đa năng lực của học sinh, giáo viên không truyền thụ giảng giải mà định hướng để học sinh tự chiếm lĩnh tri thức. Đối với học sinh lớp 1, đó chính là học sinh cần tự lực để thích học và biết cách tự học.
Bạn Vân Hà – Thái Bình:
Cô giáo Chu Thị Minh Thảo
Sĩ số cao luôn là trở ngại đối với việc thực hiện các mục tiêu giáo dục nói chung. Sĩ số quá cao sẽ hạn chế hiệu quả của các hoạt động trải nghiệm hay hoạt động nhóm theo yêu cầu của chương trình GDPT mới. Tuy nhiên, hiện nay, cơ bản các trường đã được quan tâm hơn về cơ sở vật chất để dần đáp ứng yêu cầu chung. Với những trường vẫn còn sĩ số học sinh đông, các giáo viên sẽ chọn các hình thức giáo dục linh hoạt để khắc phục.
Hiện sĩ số HS của trường Tiểu học thực nghiệm Victory tối đa là 30HS /lớp. Với sĩ số như vậy, chúng tôi thấy thuận lợi hơn so với các trường có sĩ sống đông trong việc thực hiện các mục tiêu giáo dục theo yêu cầu của Chương trình GDPT mới.
Bạn bichngoc@gmail.com:
GS.TS Đinh Quang Báo
Như tôi đã nói ở trên, Chương trình giáo dục phổ thông 2018 tiếp cận theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực; do đó giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học.
Theo đó, để học sinh nắm bắt được kiến thức tốt nhất thì nguyên tắc đầu tiên là giáo viên dạy học phân hóa theo đối tượng. Nghĩa là, giáo viên phải dạy học phù hợp theo từng đối tượng học sinh;
Thứ hai, dạy học biết vận dụng kiến thức để giải quyết các vấn đề gắn với thực tiễn. Tức là các em phải được thực hành, xóa bỏ rào cản tâm lý chán học. Vừa qua, học sinh ở nhiều trường phổ thông được giao đề tài nghiên cứu khoa học phù hợp như: nghiên cứu xử lý rác thải… và tham gia các hoạt động giáo dục STEM.
Thứ ba, để học sinh khắc phục được rào cản về tâm lý thì trong kiểm tra, đánh giá, giáo viên không nên tạo ra áp lực về điểm số mà nên sử dụng đánh giá bằng nhận xét, cho học sinh tự đánh giá mình và đánh giá lẫn nhau…
Bạn Halanle555@....:
Cô giáo Chu Thị Minh Thảo
Khi thực hiện Chương trình mới, thời gian đầu cả HS và GV đều gặp khó khăn. Do năm học 2019-2020, HS bị gián đoạn quá trình học tập vì dịch Covid - 19. Việc nghỉ như vậy có ảnh hưởng nhất định đến chất lượng của HS chuẩn bị vào lớp 1. Tuy nhiên Chương trình GDPT mới có tính mở, GV được trao quyền để chủ động điều chỉnh nội dung dạy học, phương pháp dạy học, thời lượng dạy học cho phù hợp với HS.
Vì vậy, cùng với sự chỉ đạo của Bộ GD-ĐT, các cấp quản lý, GV đã chủ động điều chỉnh kế hoạch dạy học. VD: Thời gian đầu, thay vì dạy bài đó trong 2 tiết thì chúng tôi có thể dạy lên 3 tiết nếu thấy HS còn khó khăn. Hoặc GV có thể giảm yêu cầu cần đạt ở một số kĩ năng (VD: Thay vì yêu cầu đọc cả đoạn thì HS khó khăn chỉ cần đọc từ, câu ngắn). Giai đoạn đầu là giai đoạn cần làm chậm nhưng làm chắc để HS quen với cách học ở tiểu học. Khi các em đã thuần thục rồi thì cô hoàn toàn có thể đẩy nhanh hơn.
Đặc biệt là GV sử dụng các phương pháp dạy học tích cực để phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của HS trong hoạt động học. Vì vậy, đến thời điểm này, học sinh Trường Tiểu học thực nghiệm Victory đã vượt qua được những khó khăn ban đầu, thích ứng khá tốt với hoạt động học tập.
Việc học tập là một quá trình cần sự luyện tập liên tục để HS có thể thuần thục. Vì vậy, phụ huynh nên bình tĩnh. Quan trọng nhất là người lớn cần giúp trẻ thấy thích đi học, để các con cảm nhận “mỗi ngày đến trường là một ngày vui”.
Bạn hoalan…@gmail.com:
GS.TS Đinh Quang Báo
Bất kỳ đổi mới nào cũng phải vượt qua những thách thức và khó khăn. Phải xem đó là quy luật tự nhiên. Khi đã là quy luật tự nhiên thì mọi người phải phấn đấu nhưng không nên đặt họ vào trạng thái bị áp lực về tâm lý.
Muốn vậy, trước hết giáo viên phải tạo điều kiện để tự chủ về chuyên môn, không bị đè nặng những áp lực về quản lý hành chính. Và tự chủ sáng tạo là kinh nghiệm thành công của Phần Lan.
Giáo viên phải được tạo điều kiện để có môi trường phát triển nghề nghiệp trong tập thể sư phạm nhà trường. Đương nhiên cũng cần có động viên về tinh thần, vật chất.
Kinh nghiệm các nước thành công trong giáo dục là mọi yếu tố ưu tiên được dành cho giáo viên.
Bạn Thương Lan – Bình Phước:
Cô giáo Chu Thị Minh Thảo
Những điểm kế thừa của Chương trình GDPT mới so với Chương trình GDPT hiện hành được thể hiện như sau:
- Về mục tiêu giáo dục, Chương trình GDPT mới tiếp tục được xây dựng trên quan điểm coi mục tiêu GDPT là giáo dục con người toàn diện, giúp học sinh phát triển hài hòa về đức, trí, thể, mĩ.
- Về phương châm giáo dục, Chương trình GDPT mới kế thừa các nguyên lí giáo dục nền tảng như “Học đi đôi với hành”, “Lí luận gắn liền với thực tiễn”, “Giáo dục ở nhà trường kết hợp với giáo dục ở gia đình và xã hội”, “Học qua thực hành, trưởng thành qua trải nghiệm”.
- Về nội dung giáo dục, bên cạnh một số kiến thức được cập nhật thì kiến thức nền tảng của các môn học trong Chương trình GDPT mới chủ yếu là những kiến thức cốt lõi, tương đối ổn định trong các lĩnh vực tri thức của nhân loại, được kế thừa từ Chương trình GDPT hiện hành, nhưng được tổ chức lại để giúp học sinh phát triển phẩm chất và năng lực một cách hiệu quả hơn.
- Về hệ thống môn học, trong chương trình mới, chỉ có một số môn học và hoạt động giáo dục (HĐGD) mới hoặc mang tên mới là: Tin học và Công nghệ, Ngoại ngữ, Hoạt động trải nghiệm ở cấp tiểu học.
- Về thời lượng dạy học, tuy chương trình mới có thực hiện giảm tải so với chương trình hiện hành nhưng những tương quan về thời lượng dạy học giữa các môn học không có sự xáo trộn.
- Về phương pháp giáo dục, chương trình mới định hướng phát huy tính tích cực của học sinh, khắc phục nhược điểm của phương pháp truyền thụ một chiều. Từ nhiều năm nay, Bộ GDĐT đã phổ biến và chỉ đạo áp dụng nhiều phương pháp giáo dục mới (như mô hình trường học mới, phương pháp bàn tay nặn bột, giáo dục STEM,…); do đó, hầu hết giáo viên các cấp học đã được làm quen, nhiều giáo viên đã vận dụng thành thạo các phương pháp giáo dục mới.
Bạn Binhminhbg@...:
Cô giáo Chu Thị Minh Thảo
Chào bạn, Chương trình giáo dục phổ thông nói chung có mục tiêu hình thành và phát triển cho học sinh những năng lực cốt lõi sau:
Những năng lực chung được hình thành, phát triển thông qua tất cả các môn học và hoạt động giáo dục: Năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo.
Những năng lực đặc thù được hình thành, phát triển chủ yếu thông qua một số môn học và hoạt động giáo dục nhất định: năng lực ngôn ngữ, năng lực tính toán, năng lực khoa học, năng lực công nghệ, năng lực tin học, năng lực thẩm mĩ và năng lực thể chất.
Bạn Vũ Phương Anh – Hoà Bình:
Cô giáo Chu Thị Minh Thảo
Giáo dục thể chất góp phần hình thành các phẩm chất chủ yếu và năng lực chung cho học sinh. Đồng thời, thông qua việc trang bị kiến thức về sức khoẻ, môn học này còn giúp học sinh hình thành và phát triển năng lực thể chất, ý thức trách nhiệm đối với sức khỏe của bản thân, gia đình và cộng đồng. Cùng với đó, giúp HS biết thường xuyên tập luyện và phát triển năng khiếu thể thao phù hợp với bản thân, biết thích ứng với các điều kiện sống, lạc quan và chia sẻ với mọi người, có cuộc sống khoẻ mạnh về thể lực và tinh thần.
Với thời lượng 2 tiết/tuần, nội dung chủ yếu của môn Giáo dục thể chất là Thể dục và Thể thao, rèn luyện kỹ năng vận động và phát triển tố chất thể lực cho học sinh bằng những bài tập thể chất đa dạng như rèn kỹ năng vận động cơ bản, đội hình đội ngũ, các bài tập thể dục, các trò chơi vận động, các môn thể thao và phương pháp phòng tránh chấn thương trong hoạt động.
Bạn nguyenhuyen…@gmail.com:
GS.TS Đinh Quang Báo
Khi Chương trình chuyển từ tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực thì đương nhiên giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học. Từ chỗ đã quen với việc dạy học cung cấp kiến thức, nay phải chuyển sang dạy học kiến thức ấy để phát triển phẩm chất năng lực của học sinh.
Ở đây, cần nhấn mạnh, nếu như trước đây, giáo viên dạy kiến thức mang tính cung cấp cái có sẵn, thì khi thực hiện chương trình phát triển năng lực, giáo viên phải tổ chức học sinh tự tìm hiểu kiến thức bằng hoạt động kiến tạo, khám phá. Thông qua đó, sẽ đạt được mục tiêu kép: có được kiến thức, khoa học và cách để tự mình kiến tạo nên kiến thức ấy giống với nhà khoa học.
Nói theo cách ẩn dụ là: Không chỉ được ăn món ăn ngon và còn biết tự chế biến cho mình món ăn ngon.
Để đáp ứng yêu cầu trên, giáo viên của chúng ta đang đổi mới; nghĩa là họ đã nhận thức được điều mình cần phải đổi mới thông qua bồi dưỡng và tực bồi dưỡng để có kiến thức, năng lực dạy học theo yêu cầu trên.
Bạn phanha1002@...:
Cô giáo Chu Thị Minh Thảo
Chương trình cũ thời lượng dành cho môn Tiếng Việt lớp 1 là 350 tiết, chương trình mới thời lượng dành cho môn Tiếng Việt lớp 1 là 420 tiết, tăng 70 tiết với mong muốn HS lớp 1 sớm đọc thông, viết thạo, có công cụ để học tốt các môn học khác. Vì vậy, chương trình mới, Tiếng Việt lớp 1 tăng yêu cầu cần đạt về kỹ năng đọc - viết - nói và nghe. Đồng thời, khi tăng thời lượng môn Tiếng Việt lớp 1, thời lượng các môn học khác cũng có sự điều chỉnh. Tổng thời lượng dành cho các môn học và hoạt động giáo dục bắt buộc ở lớp 1 là 25 tiết/tuần.
Về cơ bản, chương trình mới và chương trình cũ không có nhiều thay đổi về nội dung kiến thức mà thời lượng của chương trình mới lại được tăng lên. Thực chất đó chính là sự giảm tải chương trình đối với các con. Phụ huynh có thể hoàn toàn an tâm với sự phân bổ thời gian, nội dung kiến thức của chương trình lớp 1 mới.
Bạn bongxinh…@gmail.com:
GS.TS Đinh Quang Báo
Chương trình giáo dục phổ thông 2018 có nhiều điểm mới, trong đó điểm mới nổi bật nhất và cũng chi phối những điểm mới khác là: Chương trình được xây dựng theo hướng tiếp cận phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh. Khi nói mới thì phải so sánh với cái cũ.
Chương trình giáo dục phổ thông 2006 cũng có định hướng phát triển phẩm chất, năng lực; tuy nhiên những biểu hiện về phát triển về phẩm chất, năng lực chưa thật rõ cho nên vẫn nặng về cung cấp kiến thức. Người ta gọi là tiếp cận nội dung, được thể hiện bởi chương trình là một bản phác thảo về nội dung, quy định những nội dung kiến thức mà thầy – trò phải dạy và học.
Từ đó, mục tiêu cũng hướng tới cung cấp cho học sinh một khối lượng kiến thức nhất định. Khi kiểm tra đánh giá cũng chủ yếu đánh giá mức độ đạt được kiến thức môn học.
Với Chương trình giáo dục phổ thông 2018, phát triển theo tiếp cận phát triển phẩm chất, năng lực thì mục tiêu chương trình được xác định bởi một hệ thống phát triển phẩm chất và năng lực, đó là các phẩm chất: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm. Và 3 nhóm năng lực: tự chủ - tự học; giải quyết vấn đề - sáng tạo; giao tiếp – hợp tác.
Từ các phẩm chất, năng lực đó mới xác định nội dung giáo dục, phương pháp hình thức giáo dục, kiểm tra đánh giá. Như vậy, logic phát triển chương trình đó gọi là phát triển theo sơ đồ ngược.
Tóm lại, chương trình tiếp cận nội dung với mục tiêu dạy học biết cái gì. Còn chương trình tiếp cận phát triển phẩm chất, năng lực là dạy học biết làm gì. Đó là “hạt nhân” về sự khác biệt giữa Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 với Chương trình giáo dục phổ thông 20006.
Bạn honganhle68@...:
Cô giáo Chu Thị Minh Thảo
Tôi được biết, nội dung giáo dục về cơ bản không có thay đổi quá lớn. VD: hết lớp 1 thì dù là Chương trình cũ hay Chương trình mới - HS đều phải đọc thông viết thạo, biết cộng trừ không nhớ trong phạm vi 100.
Thay đổi lớn nhất là cách tiếp cận: Không thiên về truyền thụ kiến thức mà vừa hình thành kiến thức vừa phát triển năng lực, phẩm chất học sinh tiểu học. Dạy học không chỉ cung cấp kiến thức mà phải phát triển hài hòa cả phẩm chất và năng lực. Trong chương trình GDPT mới, 3 yếu tố này được hình thành và phát triển hài hòa như “kiềng 3 chân”.
Điểm mới rõ nhất lần đầu tiên ở tiểu học xuất hiện môn Hoạt động Trải nghiệm. Đây là hoạt động giáo dục, trong đó học sinh dựa trên sự tổng hợp kiến thức của nhiều lĩnh vực giáo dục và nhóm kỹ năng khác nhau để trải nghiệm thực tiễn đời sống nhà trường, gia đình và tham gia hoạt động phục vụ cộng đồng dưới sự hướng dẫn và tổ chức của giáo viên.
Ví dụ: Với năng lực cua HS lớp 1, các con có thể hiểu và tự làm được các hoạt động như: Trồng cây xanh tại trường, tự xới đất gieo hạt, tưới nước và theo dõi sự phát triển của cây hàng ngày. Đó chính là hoạt động trải nghiệm.
Bạn ducanh….@gmail.com:
GS.TS Đinh Quang Báo
Trong Chương trình giáo dục phổ thông 2018, có quan điểm: Chương trình có tính mở. Tính mở tác động đến nhiều hoạt động, liên quan đến cơ chế phân cấp, quản lý chương trình.
Trong phân cấp quản lý chương trình có quy định về thời lượng và nội dung giáo dục dành cho địa phương quản lý thực hiện – gọi là nội dung giáo dục địa phương (văn hóa, lịch sử, truyền thống…). Để thực hiện giáo dục địa phương thì Bộ GD&ĐT có công văn hướng dẫn các địa phương biên soạn tài liệu.
Bạn Hoàng Mỹ Hồng – TP. HCM:
Cô giáo Chu Thị Minh Thảo
Để đáp ứng yêu cầu của chương trình giáo dục phổ thông mới, theo tôi, giáo viên tiểu học cần đáp ứng những yêu cầu cụ thể về năng lực phẩm chất như sau:
Thứ nhất, giáo viên phải có năng lực tìm hiểu học sinh và môi trường giáo dục để dạy học và giáo dục phù hợp.
Thứ hai, giáo viên phải có năng lực giáo dục nhằm phát triển toàn diện nhân cách học sinh.
Thứ ba, giáo viên phải có năng lực dạy học môn học trong chương trình giáo dục.
Thứ tư, giáo viên phải có năng lực giao tiếp, năng lực đánh giá, bao quát, quản lý học sinh, năng lực hoạt động xã hội để thực hiện tốt nhiệm vụ dạy học và giáo dục.
Thứ năm, GV phải có năng lực tự học để không ngừng cập nhật cái mới, đáp ứng linh hoạt yêu cầu của xã hội.
Bạn haohao…@gmail.com:
GS.TS Đinh Quang Báo
Đổi mới giáo dục là một quá trình và liên tục qua từng giai đoạn. Bất kỳ một sự đổi mới nào cũng có những khó khăn bước đầu. Bởi vậy những người trực tiếp tham gia quá trình đổi mới đó cần phải thấu hiểu được những ý tưởng mới và phải nghiên cứu tác động của những đổi mới đó; trong đó phải dự báo được những thách thức và những khó khăn phải vượt qua để chúng ta thực hiện có hiệu quả những ý tưởng đổi mới. Vì thế, chúng ta vừa phải khẩn trương, nhưng đồng thời cũng không nóng vội.
Bạn truongmai…@gmail.com:
GS.TS Đinh Quang Báo
Dự án Hỗ trợ đổi mới Chương trình, SGK giáo dục phổ thông được sự tài trợ của Ngân hàng thế giới (gọi tắt là Dự án RGEP). Việc đầu tiên của dự án là tổ chức phát triển chương trình giáo dục phổ thông. Sản phẩm đầu tiên của dự án là Chương trình Giáo dục phổ thông được Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ban hành tại Thông tư số 32, ngày 26/12/2018 (gọi tắt là Chương trình giáo dục phổ thông 2018).
Theo logic, sau khi có chương trình thì phải hỗ trợ để triển khai chương trình đó trong thực tiễn giáo dục nhà trường. Như trên đã nói, SGK là công cụ rất quan trọng để triển khai chương trình. Cho nên hoạt động đầu tiên của dự án là hỗ trợ biên soạn SGK bằng những giải pháp sau:
Một là, mời các chuyên gia hàng đầu của Việt Nam và nhiều chuyên gia có kinh nghiệm trên thế giới tham gia biên soạn tài liệu. Sau khi biên soạn tài liệu thì trực tiếp tập huấn cho đội ngũ biên soạn SGK cũng như các nhà xuất bản có tham gia xuất bản SGK.
Hai là, sử dụng tài liệu đó để bồi dưỡng cho những người tham gia thẩm định SGK trước khi trình Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ký cho phép để sử dụng trong nhà trường.
Sau đó, Dự án RGEP tổ chức bồi dưỡng cho giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục các cấp, đặc biệt là cán bộ quản lý trường phổ thông sử dụng SGK đó. Thông qua biên soạn hệ thống tài liệu theo đơn vị gọi là mô – đun.
Mô – đun 1: Tìm hiểu Chương trình Giáo dục phổ thông 2018; Mô – đun 2: Bồi dưỡng cho giáo viên sử dụng phương pháp, kỹ thuật dạy học, phát triển phẩm chất năng lực học sinh; Mô – đun 3: Bồi dưỡng giáo viên về phương pháp hình thức, kiểm tra đánh giá, kết quả giáo dục, phẩm chất năng lực học sinh; Mô – đun 4: Bồi dưỡng giáo viên, cán bộ quản lý các trường phổ thông, xây dựng kế hoạch giáo dục nhà trường.
Đây là 4 Mô – đun được biên soạn, bồi dưỡng trong khuôn khổ của Dự án RGEP. Ngoài ra, giáo viên còn được bồi dưỡng thêm 5 mô – đun nữa sẽ do Dự án ETEP tiếp tục triển khai.
Việc bồi dưỡng này được tổ chức theo các đợt khác nhau: Bồi dưỡng cho giảng viên chủ chốt các trường sư phạm, để những giáo viên này trở thành báo cáo viên tập huấn cho giáo viên cốt cán và tổ trưởng chuyên môn của các trường phổ thông.
Tiếp đó, giảng viên chủ chốt và giáo viên cốt cán sẽ phối hợp với nhau để bồi dưỡng đại trà giáo viên trong cả nước. Hình thức bồi dưỡng: Kết hợp trực tiếp và bồi dưỡng online thông qua các bài giảng E – Learning. Giáo viên được bồi dưỡng mọi nơi, mọi lúc và ở bất kỳ thời điểm nào.
Tôi cũng nhấn mạnh rằng, có được tài liệu có chất lượng, có được hình thức bồi dưỡng E-Learning có sự đóng góp rất quan trọng của các chuyên gia quốc tế và chuyên gia Ngân hàng Thế giới. Họ là những người có kinh nghiệm về nội dung, tổ chức tài liệu bồi dưỡng qua mạng. Họ không chỉ đóng góp ý kiến bản thảo cho chuyên gia trong nước mà còn trực tiếp biên soạn một số nội dung.
Bạn Mỹ Anh – Hà Tây:
Cô giáo Chu Thị Minh Thảo
Chào bạn, so với Chương trình cũ, Chương trình giáo dục phổ thông mới được xây dựng theo hướng mở. Cụ thể là:
Chương trình bảo đảm định hướng thống nhất và những nội dung giáo dục cốt lõi, bắt buộc đối với học sinh toàn quốc, đồng thời trao quyền chủ động và trách nhiệm cho địa phương và nhà trường trong việc lựa chọn, bổ sung một số nội dung giáo dục và triển khai kế hoạch giáo dục phù hợp với đối tượng giáo dục và điều kiện của địa phương, của cơ sở giáo dục, góp phần bảo đảm kết nối hoạt động của nhà trường với gia đình, chính quyền và xã hội.
Chương trình mới chỉ quy định những nguyên tắc, định hướng chung về yêu cầu cần đạt đối với phẩm chất và năng lực của học sinh, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục và phương pháp đánh giá kết quả giáo dục, không quy định quá chi tiết, để tạo điều kiện cho tác giả sách giáo khoa và giáo viên phát huy tính chủ động, sáng tạo trong thực hiện chương trình.
Chương trình bảo đảm tính ổn định và khả năng phát triển trong quá trình thực hiện cho phù hợp với tiến bộ khoa học - công nghệ và thực tế.
So với chương trình cũ, chương trình giáo dục phổ thông mới cấp tiểu học theo định hướng vừa hình thành kiến thức vừa phát triển năng lực, phẩm chất học sinh tiểu học. Dạy học không chỉ cung cấp kiến thức mà phải phát triển hài hòa cả phẩm chất và năng lực. Trong chương trình GDPT mới, 3 yếu tố này được hình thành và phát triển hài hòa và như “kiềng 3 chân”. Nếu chỉ thiếu hay coi nhẹ 1 yếu tố thì sẽ không thể phát triển nhân cách, tư duy của học sinh tiểu học một cách toàn diện được.
Bạn minhanh66@...:
Cô giáo Chu Thị Minh Thảo
Với cách đánh giá tiếp cận theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực thì điểm số là một phần của kết quả học tập và rèn luyện. Quan trọng hơn là đánh giá được năng lực của HS thông qua quá trình học tập. Việc đánh giá như vậy sẽ góp phần thay đổi quá trình dạy học chuyển từ tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực, tôn trọng khả năng của mỗi HS.
Theo tôi, cách đánh giá này có tác động rất tích cực tới quá trình học tập của học sinh. Cùng với giáo viên, phụ huynh cũng được tham gia đánh giá học sinh. Cụ thể: Với HS lớp 1, ngoài việc GV đánh giá trên lớp thông qua điểm số, năng lực phẩm chất, phụ huynh có thể kết hợp với GV để theo dõi sự tiến bộ của con ở nhà thông qua tất cả các hoạt động. Quá trình này sẽ giúp phát hiện hạn chế, khuyến khích những mặt mạnh để HS nhanh chóng tiến bộ. Nhờ đó, học sinh chủ động, tích cực hơn trong quá trình học tập, chiếm lĩnh tri thức.
Bạn Ngân Anh – Vĩnh Phúc:
Cô giáo Chu Thị Minh Thảo
Chào bạn, đánh giá và xếp loại học sinh tiểu học áp dụng cho chương trình GDPT mới kế thừa quan điểm “đánh giá vì sự tiến bộ của học sinh” của Thông tư 22/2016/TT-BGDĐT. Theo đó, công tác đánh giá cần coi trọng việc động viên, khuyến khích sự cố gắng trong học tập, rèn luyện của học sinh; giúp học sinh phát huy nhiều nhất khả năng, năng lực; đảm bảo kịp thời, công bằng, khách quan. “Không so sánh học sinh này với học sinh khác, không tạo áp lực cho học sinh, giáo viên và cha mẹ học sinh”.
Việc đánh giá học sinh được thực hiện theo quá trình, kết hợp giữa đánh giá thường xuyên, đánh giá định kỳ và tổng hợp đánh giá. Trong đó, đánh giá thường xuyên được thể hiện bằng lời hoặc viết nhận xét; đánh giá định kì thể hiện bằng điểm số kết hợp với nhận xét. Cùng với giáo viên, các học sinh và phụ huynh đều được tham gia vào đánh giá học sinh tiểu học.
Với cách đánh giá như vậy thì điểm số là một phần của kết quả học tập và rèn luyện. Quan trọng hơn là đánh giá được năng lực của HS thông qua quá trình học tập. Việc đánh giá như vậy sẽ góp phần thay đổi quá trình dạy học chuyển từ tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực, tôn trọng khả năng của mỗi HS.
Cụ thể trong quá trình kiểm tra, đánh giá đối với học sinh lớp 1, ngoài việc GV đánh giá bằng điểm số thi cuối học kỳ thì còn đánh giá HS ở năng lực phẩm chất. Ví dụ: Khi kiểm tra mà HS chưa đánh giá được đúng năng lực phẩm chất (HS gặp vấn đề về sức khoẻ trong kỳ thi hoặc gặp sự cố ngoài ý muốn mà ảnh hưởng tới kết quả thi) thì GV hoàn toàn có thể cho HS kiểm tra lại.
Bạn hieuphong…@gmail.com:
GS.TS Đinh Quang Báo
Trước hết, SGK là yếu tố quan trọng để cụ thể hóa chương trình. SGK là công cụ sư phạm, để triển khai chương trình với một số vai trò sau:
Thứ nhất, cung cấp thông tin về nội dung của từng môn học cho thầy – trò
Thứ hai, giúp tổ chức quá trình sư phạm để thầy – trò gia công xử lý thông tin đó, đáp ứng mục tiêu hình thành phẩm chất, năng lực của học sinh. Đó là quá trình sư phạm hóa thông tin theo yêu cầu của giáo dục của Chương trình giáo dục phổ thông 2018.
Tuy nhiên, để cụ thể hóa chương trình không chỉ có SGK, nhưng SGK có vai trò quan trọng nhất.
Từ trước tới nay, nhiều người coi SGK là “pháp lệnh” cho nên người ta xem SGK là chương trình. Ngày nay cần phải hiểu, chương trình giáo dục phổ thông là văn bản quy phạm pháp luật, được quy định trong Luật giáo dục 2019, mà tất cả mọi người trong xã hội, đặc biệt là những người trực tiếp trong ngành Giáo dục như: Giáo viên, học sinh và cán bộ quản lý giáo dục các cấp phải thực hiện.
SGK cũng phải được Bộ trưởng Bộ GD&ĐT cho phép sử dụng trong nhà trường phổ thông. Tuy nhiên, trong chương trình Giáo dục phổ thông 2018 có điểm mới nổi bật là: Có 1 Chương trình giáo dục phổ thông do Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ban hành, nhưng có 1 hoặc nhiều bộ SGK khác nhau để thực hiện chương trình. Người ta gọi đó là quá trình xã hội hóa biên soạn SGK được quy định bởi Nghị quyết 88 của Quốc hội.
Bạn tranlan@gmail.com: