Thời gian qua, trong cả nước có nhiều trường đại học đào tạo chương trình chất lượng cao.
Tuy nhiên, mỗi trường đã tổ chức đào tạo chương trình CLC theo một cách thức riêng, mức học phí và chất lượng đào tạo khác nhau. Một số trường gắn mác đào tạo chất lượng cao, thu học phí cao nhưng chất lượng lại không cao.
Sinh viên chương trình CLC ra trường không đáp ứng yêu cầu nhà tuyển dụng và thiệt thòi cho sinh viên vì phải trả học phí cao cho chất lượng không tương xứng.
Vì vậy, ngày 18/7/2014, Bộ GD&ĐT đã ban hành Thông tư số 23/2014/TT-BGDĐT quy định về đào tạo chất lượng cao trình độ đại học để triển khai trong các cơ sở GDĐH. Sau khi nghiên cứu nội dung Thông tư chúng tôi có một số ý kiến trao đổi như sau:
Một là, Thông tư ra đời đã tạo cơ chế thống nhất để quản lý các chương trình chất lượng cao trong cả nước. Điều này mang lại công bằng cho người học vì người học xác định được chương trình nào thực sự là chương trình chất lượng cao.
Thông tư có hệ thống tiêu chí nhằm giúp người học, phụ huynh và xã hội thấy rõ quá trình đầu tư, quá trình đào tạo, chuẩn đầu ra để so sánh, đối chiếu và đưa ra lựa chọn phù hợp.
Hai là, nội dung Thông tư được xây dựng một cách chi tiết và với những yêu cầu rất cụ thể, đảm bảo phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam hiện nay.
Về chương trình đào tạo: Chương trình đào tạo chất lượng cao được xây dựng và phát triển trên nền của chương trình đào tạo đại trà của Cơ sở đào tạo; có tham khảo Chương trình Đào tạo đang được áp dụng ở một trường ĐH trong khu vực hoặc trên thế giới đã được công nhận đạt chất lượng bởi tổ chức kiểm định chất lượng có uy tín hoặc được cơ quan có thẩm quyền của nước đó cho phép thực hiện và cấp văn bằng.
Chuẩn đầu ra của Chương trình đào tạo chất lượng cao phải cao hơn của Chương trình đào tạo đại trà tương ứng về năng lực chuyên môn; năng lực nghiên cứu, năng lực ngoại ngữ; năng lực ứng dụng công nghệ thông tin; năng lực dẫn dắt, chủ trì và làm việc nhóm; khả năng thích nghi với môi trường công tác; riêng năng lực ngoại ngữ tối thiểu phải đạt bậc 4/6 theo khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam (hoặc tương đương).
Về đội ngũ giảng viên: Có trình độ thạc sĩ trở lên, có kinh nghiệm giảng dạy liên quan đến ngành CTCLC từ 3 năm trở lên. Riêng giảng viên dạy lý thuyết các học phần thuộc khối kiến thức ngành, chuyên ngành phải có trình độ tiến sĩ hoặc chức danh giáo sư, phó giáo sư hoặc có trình độ thạc sĩ tốt nghiệp ở các trường đại học của các nước phát triển;
Giảng viên dạy các học phần chuyên môn bằng ngoại ngữ, ngoài các tiêu chuẩn chung, phải có trình độ ngoại ngữ bậc 5/6 trở lên theo khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam (hoặc tương tương) hoặc được đào tạo trình độ đại học trở lên toàn thời gian ở nước ngoài;
Có giảng viên nước ngoài đáp ứng yêu cầu của CTCLC tham gia giảng dạy một số học phần thuộc khối kiến thức cơ sở ngành, ngành và chuyên ngành được dạy bằng ngôn ngữ của CTĐT nước ngoài hoặc Tiếng Anh.
Về điều kiện về cơ sở vật chất phục vụ đào tạo:
Đảm bảo điều kiện về cơ sở vật chất phục vụ đào tạo và NCKH và các điều kiện khác phải đáp ứng yêu cầu của CTCLC và tương xứng với mức thu học phí.
Trong đó quy định rõ Cơ sở ĐT phải có phòng học riêng cho lớp ĐTCLC được trang bị máy tính kết nối mạng internet và các thiết bị hỗ trợ giảng dạy, học tập; mỗi sinh viên CTCLC có nơi tự học ở trường, được sử dụng mạng internet không dây.
Về nghiên cứu khoa học
Hàng năm, mỗi giảng viên cơ hữu tham gia giảng dạy học phần lý thuyết ngành và chuyên ngành của chương trình CLC phải có tối thiểu 1 công trình NCKH được công bố hoặc được nghiệm thu có nội dung liên quan đến ngành đào tạo CLC.
Trong cả khóa học, mỗi sinh viên chương trình CLC phải được tham gia NCKH theo nhóm nghiên cứu do các giảng viên hướng dẫn hoặc tham gia đề tài NCKH với giảng viên.
Hằng năm, giảng viên và sinh viên chương trình CLC phải có ít nhất 1 đề tài phối hợp nghiên cứu với các tổ chức, doanh nghiệp và cơ sở sản xuất liên quan đến Chương trình CLC.
Về tổ chức đào tạo chương trình CLC phải đảm bảo:
Có ít nhất 20% số tín chỉ các học phần thuộc khối kiến thức cơ sở ngành, ngành và chuyên ngành được dạy bằng ngôn ngữ của CTĐT nước ngoài hoặc Tiếng Anh, trong đó có ít nhất 1/2 số tín chỉ (của 20% số tín chỉ nêu trên) do “giảng viên nước ngoài” đảm nhiệm (trừ các ngành chỉ đạo ở Việt Nam);
Mời các giảng viên thỉnh giảng và báo cáo viên là các chuyên gia, nhà khoa học, doanh nhân, nghệ nhân đến từ cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp ở trong nước hoặc nước ngoài tham gia giảng dạy, báo cáo chuyên đề, hướng dẫn thực hành, thí nghiệm, phát triển nghề nghiệp; hợp tác với các đơn vị sử dụng lao động, doanh nghiệp liên quan để mời tham gia, hỗ trợ hoạt động đào tạo và NCKH;
Bố trí đủ trợ giảng cho mỗi học phần thuộc khối kiến thức chuyên ngành; Bố trí đủ người hướng dẫn thảo luận, thực hành, thí nghiệm, thực tập; đảm bảo mỗi nhóm thảo luận không quá 30 sinh viên, nhóm thực hành không quá 15 sinh viên, nhóm làm thí nghiệm tại phòng thí nghiệm không quá 5 sinh viên.
Có thể nói rằng, thông tư số 23/2014/TT-BGDĐT quy định về đào tạo chất lượng cao trình độ đại học đã vạch ra một hành lang khá sáng sủa cho các trường đại học muốn đào tạo nhân lực có trình độ đại học chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu xã hội.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là các trường đại học muốn đào tạo đại học chất lượng cao phải triển khai thực hiện theo thông tư này cần phải đảm bảo các điều kiện :
Đảm bảo chất lượng và chuẩn đầu ra phải cao hơn CTĐT tương ứng đang được thực hiện hợp pháp tại cơ sở đào tạo, có mức trần học phí theo quy định hiện hành của Chính phủ (tạm gọi chương trình đại trà);
Phải đáp ứng các tiêu chí đồng bộ, bao gồm: CTĐT, tuyển sinh, đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý, tổ chức và quản lý đào tạo, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế, cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu thực hiện CTCLC nêu trên.
Trong các điều kiện và tiêu chí trên, các trường đại học phải lưu ý tiêu chí về Chương trình đào tạo có tham khảo CTĐT đang được áp dụng ở một trường ĐH trong khu vực hoặc trên thế giới đã được công nhận đạt chất lượng bởi tổ chức kiểm định chất lượng có uy tín hoặc được cơ quan có thẩm quyền của nước đó cho phép thực hiện và cấp văn bằng.
Điều này, có thể dẫn đến việc sao chép hoặc ghép nối các học phần trong Chương trình đào tạo của các trường ĐH trong khu vực hoặc trên thế giới.
Việc tham khảo các Chương trình đào tạo mới chỉ là cái khung bên ngoài, điều quan trọng là nội dung, học liệu, phương pháp giảng dạy mới là điều quan trọng cần được lưu ý.
Hiện nay, tại Việt Nam vẫn có trường Đại học chọn cách mua bản quyền chương trình đào tạo, tập huấn phương pháp giảng dạy, tiếp thu học liệu của các đại học tiên tiến trên thế giới như Trường Đại học Duy Tân chẳng hạn. Nhưng cách làm này đòi hỏi phải bỏ chi phí rất lớn mới có thể thực hiện được.
Bên cạnh đó, tiêu chí điều kiện về cơ sở vật chất phục vụ đào tạo yêu cầu mỗi sinh viên CTCLC có nơi tự học ở trường. Điều này cũng rất cần thiết để các trường đại học lưu ý quan tâm đầu tư cơ sở vật chất phù hợp với tiêu chuẩn đào tạo chất lượng cao.
Chất lượng đào tạo phải được xã hội, người học và cơ quan sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao này, cơ quan quản lí giám sát. Thông tư cũng quy định Cơ sở đào tạo phải công bố công khai trên trang thông tin điện tử của cơ sở đào tạo các quy định chi tiết về đối tượng CLC và mức học phí trước mỗi kì tuyển sinh và hàng năm, sau mỗi kì tuyển sinh, Cơ sở đào tạo báo cáo Bộ GD&ĐT kết quả tuyển sinh chương trình Chất lượng cao;
Bộ GD&ĐT cũng công bố công khai tất cả các đề án đào tạo chương trình Chất lượng cao của các chính sách đào tạo trên trang thông tin điện tử của Bộ GD&ĐT.
Ngoài ra, Bộ GD&ĐT thực hiện định kỳ hàng năm kiểm tra, giám sát việc triển khai tổ chức đào tạo chương trình Chất lượng cao của các Cơ sở đào tạo.
Các cơ sở đào tạo phải đăng ký kiểm định chương trình Chất lượng cao sau 2 khoá tốt nghiệp, theo quy định về kiểm định chương trình đào tạo của Bộ GD&ĐT.
Tuy nhiên, Bộ Giáo dục- Đào tạo, Bộ cũng cần xây dựng cơ chế giám sát thực hiện nội dung Thông tư này ngoài việc phát huy việc giám sát của toàn xã hội nhằm tạo ra các chương trình chất lượng cao một cách thật sự.
Cục Khảo thí và Đảm bảo chất lượng cũng cần xây dựng hệ thống tiêu chí riêng để kiểm tra đánh giá các chương trình đào tạo chất lượng cao.
Tóm lại, việc ra đời thông tư 23/2014/BGD&ĐT hi vọng sẽ góp phần kiện toàn công tác quản lý đào tạo chương trình chất lượng cao tại các trường đại học trong cả nước giúp nâng cao chất lượng đào tạo đại học, một vấn đề cả xã hội quan tâm hiện nay.