Nhân vật nữ trong văn xuôi Việt Nam hiện đại: Trỗi dậy mạnh mẽ từ hoàn cảnh

GD&TĐ - Ở mỗi giai đoạn cụ thể, các tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại đã xây dựng hệ thống nhân vật dưới sự tác động của hoàn cảnh đời sống xã hội, từ đó khái quát thành bức tranh hiện thực và giá trị nhân đạo mới mẻ, sâu sắc. 

Bìa của các tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, “Vợ nhặt”, “Chiếc thuyền ngoài xa”.
Bìa của các tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, “Vợ nhặt”, “Chiếc thuyền ngoài xa”.

Nổi bật trong dòng chảy ấy là các nhân vật nữ với vẻ đẹp tiềm tàng, khuất lấp và trỗi dậy mạnh mẽ mỗi khi có sự tác động của hoàn cảnh. Vẻ đẹp ấy đã góp phần thể hiện giá trị tư tưởng, vị trí và sức sống của mỗi tác phẩm trong đời sống văn học dân tộc...

Đi tìm từ sâu thẳm tâm hồn

Có thể nói, các tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại đều ra đời ở những thời điểm, hoàn cảnh đặc biệt của đất nước. Trong bức tranh muôn màu ấy, hình ảnh người phụ nữ nổi lên như một điểm nhấn trong mỗi tác phẩm với những cuộc đời, số phận éo le, bi thảm, đầy đau khổ, từ đó gieo vào trái tim nhà văn và bạn đọc những điều trăn trở, khắc khoải trước số phận con người.

Ở truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, nhà văn Tô Hoài đã ngược lên vùng Tây Bắc để viết về số phận của người lao động nghèo ở miền núi dưới sự áp bức, bóc lột của thực dân, chúa đất. Trong đó, nổi bật là nhân vật Mỵ, một cô gái người dân tộc Mông phải chịu bao tủi cực trước các thế lực tàn bạo. Sinh ra và lớn lên giữa bản vùng cao Tây Bắc, Mỵ vốn là một cô gái xinh đẹp, chăm chỉ lao động, có tài thổi sáo, có hiếu với cha và yêu đời, yêu tự do.

Lẽ ra Mỵ phải được hưởng hạnh phúc nhưng cuộc đời người con gái ấy khi đến tuổi kết hôn cũng là lúc bắt đầu kiếp sống của một “con dâu gạt nợ” cho nhà thống lí Pá Tra bởi món nợ truyền kiếp của cha mẹ với bọn chúa đất. Dần dần theo năm tháng, Mỵ mất hết ý niệm về thời gian, không gian, không nghĩ đến cái chết nữa, cũng không có ý định bỏ trốn và sự vô cảm trước mọi thứ đã che lấp hết đi sức sống, lòng yêu đời và yêu tự do trong Mỵ.

Khai thác số phận con người trong nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu 1945, nhà văn Kim Lân trong truyện ngắn “Vợ nhặt” đã không đi vào những sự kiện lớn, những biến cố mà đi sâu tìm hiểu về số phận bi đát, éo le của những người nông dân nghèo trong hoàn cảnh sự sống và cái chết gần như gang tấc... Giữa không gian đặc quyện sự chết chóc ấy, nhà văn Kim Lân đã hướng góc nhìn đến những cô gái “ngồi vêu” ở vệ đường trong bộ dạng rách rưới, đói khổ.

Trong số đó, thị, người chạy lại đẩy xe thóc cho Tràng được nhà văn chú ý miêu tả. Và rồi, lần thứ hai khi gặp Tràng, với vẻ mặt “xưng xỉa”, lời nói “chao chát, chỏng lỏn”, thị đã theo Tràng về làm vợ, theo không, không cần cưới hỏi hay lễ vật gì, chỉ ra chợ ăn một lúc bốn bát bánh đúc rồi người con gái ấy đã theo không chàng trai về làm vợ.

Bước vào thời kỳ hậu chiến, đất nước hòa bình, thống nhất, trở về cuộc sống đời thường, văn học Việt Nam có sự chuyển biến sâu sắc về đề tài, cảm hứng, nghệ thuật. Tiên phong trong thời kỳ đổi mới nền văn học, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã khai thác cuộc đời, số phận của người đàn bà hàng chài trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”.

Cuộc sống lênh đênh trên biển đầy gian khó, gia cảnh đông con, người chồng vũ phu luôn giáng lên lưng người đàn bà khốn khổ ấy những trận đòn “quái ác”. Khi nghệ sĩ Phùng chứng kiến cảnh đó, anh cảm giác như đó là một “nghịch lý” của cuộc sống và một điều khó hiểu là trước những trận đòn ấy, người đàn bà cứ thế mà chịu đựng, không chạy trốn, không chống lại cũng không hề van xin. Có chăng, người đàn bà có lúc xin chồng đưa lên bờ mà đánh để các con không phải chứng kiến cảnh bạo lực.

Trỗi dậy khi có sự tác động của hoàn cảnh

Thật khó đi đến hồi kết nếu số phận của các nhân vật nữ cứ mãi đắm chìm, trượt dài trước hoàn cảnh của đời sống xã hội. Tuy nhiên, với cái nhìn nhân đạo và niềm tin vào vẻ đẹp tâm hồn con người, các nhà văn đã đặt người phụ nữ vào những tình huống, những hoàn cảnh cụ thể để thổi bùng lên sức sống tiềm tàng, khơi lên vẻ đẹp khuất lấp, ẩn sâu trong tâm hồn họ.

Ở truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, không phải ngẫu nhiên Mỵ trỗi dậy sức sống, sức phản kháng mà là do sự tác động của ngoại cảnh vào tâm cảnh. Đó là không khí náo nức của đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài với tiếng sáo gọi bạn tình, không khí ăn Tết tưng bừng đã “xâm lấn” vào tâm hồn Mỵ tự lúc nào. Sự tác động của ngoại cảnh cũng làm thức dậy trong Mỵ sự nhận thức về quá khứ tươi đẹp, về hiện tại vô cùng tàn nhẫn và hướng về tương lai. Mỵ đã nhận ra mình “Mỵ còn trẻ lắm, Mỵ muốn đi chơi...”. Mỵ hành động để thể hiện lòng yêu đời, yêu tự do bằng việc rút váy, thắp đèn sáng, cuốn lại tóc để đi chơi như bao người đàn bà có chồng khác.

Ở thời điểm khác, đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, Mỵ chỉ biết làm bạn với ngọn lửa để xua tan đi giá lạnh vào mỗi đêm trong trạng thái sống câm lặng trở lại sau đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài. Lúc đó, A Phủ xuất hiện trong tư thế bị trói đứng và đang ở tình trạng chờ chết nhưng Mỵ vẫn dửng dưng thổi lửa, hơ tay. Bởi vậy, dù “A Phủ có là cái xác chết đứng ở đó cũng thế thôi”. Chỉ đến khi nhìn thấy “dòng nước mắt chảy trên hõm má đã đen xạm lại của A Phủ”, sức sống, sức phản kháng trong Mỵ mới trỗi dậy. Thương mình, thương người, nghĩ đến tội ác của cha con thống lí là những suy nghĩ đang tổng hòa trong Mỵ để bật lên thành một quyết định và hành động táo bạo là cắt dây cởi trói cứu A Phủ và chạy theo A Phủ xuống dốc núi. Mỵ đã cứu A Phủ và đồng nghĩa với việc giải thoát cuộc đời mình.

Ở “Vợ nhặt”, trước hoàn cảnh trở về xóm ngụ cư làm vợ Tràng, con dâu bà cụ Tứ, người đàn bà không tên giữa nạn đói khủng khiếp ấy được nhà văn Kim Lân khai thác ở vẻ đẹp nữ tính vốn khuất lấp trước đó. Khi bước chân trên đường về xóm ngụ cư, vẻ đẹp nữ tính của thị đã dần bộc lộ qua các tín hiệu như bước chân díu vào nhau, lấy nón che mặt như thể ngại ngùng, lo lắng.

Rồi khi vào nhà, thị ngồi ở mép giường, tay vân vê tà áo, chào bà cụ Tứ lễ phép chứ không còn chua chát, chỏng lỏn như trước nữa. Sáng hôm sau, thị cùng mẹ quyét tước nhà cửa, sân vườn, múc nước vào vại, giặt giũ quần áo, nấu cơm... Và trong bữa cơm đầu tại nhà chồng, thị kể cho Tràng nghe về việc người dân ở mạn Bắc Giang, Thái Nguyên không chịu đóng thuế mà họ kéo nhau đi phá kho thóc chia cho dân nghèo. Câu chuyện ấy tưởng như chuyện phiếm nhưng từ sâu thẳm tâm hồn thị, phải chăng đó là sự nhận thức về hoàn cảnh, về con đường giải thoát số phận trước cái đói thảm khốc.

Trong hoàn cảnh cuộc sống đời thường, mưu sinh đầy gian khó, người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được nhà văn Nguyễn Minh Châu khắc họa những phẩm chất mang màu sắc truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Đặt người đàn bà hàng chài vào hoàn cảnh bạo lực gia đình với những trận đòn quái ác từ người chồng và việc Phùng, Đẩu mời chị ra tòa, Nguyễn Minh Châu đã hé mở cho độc giả những vẻ đẹp bấy lâu nay khuất lấp bên trong cái ngoại hình thô kệch, mệt mỏi, vẻ bề ngoài lam lũ, thất học của người đàn bà. Và đó cũng là câu trả lời cho những băn khoăn của Phùng và Đẩu.

Có thể khẳng định, sức sống tiềm tàng, vẻ đẹp khuất lấp trong tâm hồn các nhân vật nữ trong các tác phẩm văn xuôi 1945 - 1975, sau 1975 đã góp phần làm nổi bật vẻ đẹp hình tượng người phụ nữ trong dòng chảy của văn học Việt Nam. Đó là những vẻ đẹp vừa mang tính truyền thống, bền vững, vừa có những vẻ đẹp gắn với số phận và hoàn cảnh trong những thời điểm cụ thể. Thông qua vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong mỗi tác phẩm, các nhà văn gửi gắm những thông điệp quan trọng về con người, về nghị lực sống, về khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và những quan niệm về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. Đó là những tư tưởng quan trọng góp phần làm nên sức sống lâu bền của tác phẩm văn học trong lòng độc giả và sự phát triển không ngừng của nền văn học dân tộc.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ