Những năm cuối thập niên 1980, Liên Xô tuyên bố tàu ngầm hạt nhân tấn công K-147 đã bí mật theo dõi và bám sát tàu ngầm hạt nhân USS Simon Bolivar của Mỹ trong 6 ngày mà không cần kích hoạt sonar.
Giới chuyên gia Mỹ khi đó cho rằng đây là điều không tưởng, khẳng định công nghệ Liên Xô quá lạc hậu và không đủ khả năng phát hiện những tàu ngầm hiện đại, có độ ồn rất thấp của Mỹ.
Sonar vốn được coi là "tai mắt dưới nước của tàu ngầm", chia thành hai loại cơ bản. Sonar chủ động phát ra chùm sóng âm và theo dõi tín hiệu phản xạ từ các chướng ngại vật dưới nước.
Nhưng chúng thường hiếm khi được kích hoạt trong các kịch bản chiến đấu, do tín hiệu âm thanh có thể đánh động tàu ngầm, tàu mặt nước và máy bay săn ngầm đối phương.
Sonar thụ động dựa trên cảm biến âm thanh độ nhạy cao, có thể thu được tiếng ồn từ động cơ hoặc chân vịt tàu chiến. Sonar thụ động đòi hỏi chi phí đầu tư và trình độ công nghệ rất cao, nhưng có thể duy trì khả năng ẩn mình của tàu ngầm.
Giới quân sự phương Tây thậm chí từng ví tàu ngầm Liên Xô như "tàu ngầm mù", do chúng không được trang bị hệ thống sonar tinh vi.
Nhưng theo tài liệu soạn thảo năm 1972 và được Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) giải mật năm 2017, Liên Xô thực sự đã phát triển và trang bị công nghệ mang tên "Hệ thống Phát hiện Vật thể trong Vệt sóng" (SOKS) cho phép tàu ngầm theo dõi đối phương mà không cần kích hoạt sonar.
Tổ hợp SOKS đầu tiên xuất hiện trên tàu ngầm K-14 thuộc Đề án 627 vào năm 1969. Liên Xô đã phát triển nhiều biến thể khác nhau. SOKS dường như cũng được trang bị cho mọi tàu ngầm tấn công thế hệ mới của Nga như Đề án 971 Shchuka-B và Đề án 855 Yasen.
Hệ thống cảm biến của SOKS là hàng loạt mũi nhọn và ống rỗng, được ví như những chiếc mũi đánh hơi, gắn bên ngoài tháp chỉ huy và mũi tàu ngầm.
Tình báo Mỹ nhận định hệ thống có thể phát hiện bức xạ yếu từ lò phản ứng hạt nhân trên tàu ngầm đối phương, kèm theo máy quang phổ tia gamma đủ sức theo dõi dấu vết phóng xạ trong nước biển.
Hệ thống SOKS còn nhận diện được một số chất hóa học mà tàu ngầm để lại trong quá trình hoạt động, như kẽm trên lớp vỏ chống ăn mòn, niken trong nước làm mát và hydro từ hệ thống tạo oxy. Hệ thống đo đạc tối tân của SOKS có thể phát hiện các chất này, dù chỉ có lượng cực nhỏ trong nước.
Cùng với đó, lò phản ứng hạt nhân trên tàu ngầm cũng tỏa ra lượng nhiệt lớn và cần hàng nghìn lít nước làm mát mỗi phút. Sau khi qua khoang trao đổi nhiệt, nước thải ra có thể ấm hơn 10 độ C so với môi trường xung quanh có thể bị SOKS phát hiện.
Bài viết của báo Mỹ nhấn mạnh: "Từng có nhiều trường hợp tàu ngầm Liên Xô bám đuôi mục tiêu suốt nhiều ngày và duy trì khoảng cách ngoài tầm hoạt động của sonar đối phương. Trong suốt thời gian rất dài, các nhà phân tích phương Tây không thể hiểu Liên Xô đã làm như thế nào".
Cũng theo Popular Mechanics, CIA phải chờ 45 năm mới công bố tài liệu về SOKS nhằm đợi quân đội nước này hoàn thiện các biện pháp đối phó, như giảm dấu vết phóng xạ và hóa học mà tàu ngầm để lại.
Chuyên gia quân sự Mỹ David Hambling cảnh báo: "Biến thể mới của SOKS chắc chắn sẽ có tính năng vượt trội so với những thiết bị từ thời Liên Xô. Chính vì vậy, qua mắt hệ thống này chưa bao giờ là nhiệm vụ dễ dàng với Hải quân Mỹ".