Nhiều vấn đề về tác giả và tác phẩm, sáng tác và tiếp nhận, văn bản và đọc “liên văn bản”, bình luận và tranh luận được soi chiếu trong toàn cảnh sinh quyển phong trào Thơ mới 1932 - 1945.
Điều lạ trước hết là bài thơ Nhớ rừng được giới thiệu, trích dẫn, biết đến trên văn đàn lại qua bài phê bình của chủ tướng Tự lực văn đoàn Nhất Linh rồi sau mới được in toàn văn.
Từ rất sớm, Nhất Linh nhận diện Nhớ rừng của Thế Lữ trong ngọn nguồn phong trào Thơ mới: “Những ý tưởng ông diễn trong các bài thơ của ông toàn là ý mới cả, những cảnh đời ông tả đều có một cái thi vị thâm trầm: Ông hay tả những nỗi đau khổ của kẻ nghèo hèn: “Túi rỗng không mà lòng cũng rỗng không” của những kẻ uất ức, nhục nhằn. Như tả con hổ trong vườn Bách thú, có những câu:
Gặm một khối căm, hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.
Khinh lũ người kia ngạo mạn ngẩn ngơ,
Giương mắt bé diễu cái oai
rừng thẳm…
Văn thơ quốc ngữ có tiếng là yếu ớt, thế mà ở ngòi bút ông ra thì lại mạnh mẽ như vậy. Tả một con hổ bị giam hãm nhớ đến rừng cũ, mà có những câu:
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ,
Thuở tung hoành hống hách
những ngày xưa.
Nhớ cõi sơn lâm bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, giọng nguồn
hét núi.
Nào đâu: những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trắng tan…
Đâu những buổi bình minh,
cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca, giấc ngủ ta tưng bừng.
Thế mà nay,
…trong những ngày ngao ngán,
Ta đang nằm giấc mộng ngàn to lớn,
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi.
Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!
Xem thơ ông mới hay rằng nếu ta chịu khó đặt câu thì bất cứ cảnh gì cũng tả được, chứ không phải quanh quẩn chỉ có mấy cái cảnh tầm thường mà ai tả cũng giống ai. Như ông tả cái dáng con hổ lượn trong đám cỏ, lá:
Ta bước chân lên, dõng dạc
đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn
nhịp nhàng,
Vờn những đám âm thầm, lá dài,
cỏ sắc…
Có cái linh hồn thơ như ông, thêm được cái tài đặt câu, dùng chữ, lại đi vào con đường Thơ mới rộng rãi, phong quang thì lo gì sau này ông không có cái tương lai rực rỡ; và làng Thơ mới cũng mừng rằng được một người tiên phong có giá trị” (Nguyễn Thế Lữ - một nhân vật mới trong làng Thơ mới. Phong hóa, số 54, ra ngày 7/7/1933).
Rất lạ, qua gần một năm sau bài thơ mới chính thức xuất hiện, được in toàn văn, đặt trong mục Thơ mới, có phụ đề “Lời con hổ ở vườn Bách thú”, gồm 47 câu, chia thành 5 khổ thơ (8 câu - 12 câu - 10 câu - 9 câu - 8 câu), các câu thơ thay đổi 7 - 9 chữ (Phong hóa, số 95, ra ngày 27/4/1934); sau này được Hoài Thanh - Hoài Chân tuyển chọn vào Thi nhân Việt Nam (1942).
Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé giễu cái oai rừng thẳm,
Nay bị sa cơ, nhục nhằn, tù hãm,
Làm một trò lạ mắt, thứ đồ chơi!
Bị ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.
*
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ,
Thuở tung hoành, hống hách
những ngày xưa.
Nhớ cõi sơn lâm, bóng cả cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn
hét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội,
Ta bước chân lên, dõng dạc,
đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn
nhịp nhàng,
Vờn những đám âm thầm, lá dài, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta là chúa tể cả muôn loài,
Trong chốn cỏ hoa không tên,
không tuổi.
*
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan.
Đâu những ngày mưa chuyển động
bốn phương ngàn,
Ta lặng ngắm cảnh giang san ta
đổi mới?
Đâu những buổi bình minh
cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những buổi chiều lênh láng máu
sau rừng.
Ta đợi tắt mảnh mặt trời gay gắt,
Để chiếm lấy phần tối tăm bí mật.
Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?
*
Nay ta ôm nỗi hận ngàn thâu,
Ghét những cảnh không đời nào
thay đổi,
Những cảnh sửa sang, tầm thường,
giả dối:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng,
Dải nước đen giả suối,
chẳng thông dòng,
Lẩn lút bên những mô gò thấp kém.
Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm,
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu,
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.
*
Hỡi cảnh oai linh! Nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hầm thiêng ta ngự trị.
Là nơi ta thênh thang vùng vẫy
ngày xưa,
Nơi ta chẳng còn mong được thấy
bao giờ!
Có biết chăng trong những ngày
ngao ngán,
Ta đang theo giấc mộng ngàn to lớn.
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,
Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!
Rất có thể Thế Lữ đã chuyển bài thơ Nhớ rừng tới Nhất Linh từ sớm nhưng không hiểu vì sau cả năm sau mới in báo? Thế rồi chỉ hai tuần sau khi xuất hiện trên Phong hóa, T. Bách trong bài giới thiệu nhấn mạnh cái mới của Thơ mới đã đi sâu chứng dẫn, phân tích bài thơ từ góc độ ngữ học:
“Thơ mới hay thơ cũ cũng cần phải có điệu, chỉ khác là làm thơ mới phải tìm lấy điệu chứ không theo khuôn mẫu sẵn. Như thế, tìm được điệu cũng khó, nhất là khi dùng câu không có hạn chữ. Dùng những câu tám hay chín chữ để đặt điệu hơn cả, tùy ý mình muốn dùng vần liền (rimes plates) hay vần cách (rimes croisées). Trong một câu lại phải biết đặt những chỗ nghỉ (coupes, césures) cho điệu lên xuống. Trong bài Con hổ của Thế Lữ có những câu rất mạnh mẽ:
… Ta sống mãi/trong tình thương,
nỗi nhớ
Thuở tung hoành/hống hách/
những ngày xưa.
Ta bước chân lên/dõng dạc
đường hoàng!...
Nào đâu/những đêm vắng/bên bờ suối
Ta say mồi/đứng uống ánh trăng tan.
Những ý tưởng, nếu diễn ra bằng thể thất ngôn hay lục bát sẽ thấy yếu ớt ngay… Thơ mới chắc sẽ đưa văn nghệ nước ta trên con đường tương lai rực rỡ, vì hiện nay đã sản xuất được nhiều tác phẩm có giá trị” (Thơ mới. Phong hóa, số 97, ra ngày 11/5/1934).
Chưa dám chắc chắn có chịu ảnh hưởng hình tượng con hổ trong thơ Thế Lữ hay không nhưng ngay cuối năm ấy, Phạm Huy Thông trong đoạn kết bài thơ Thời gian qua, cảm nhận cảnh quan Chiêm Thành trước dòng thời gian cũng có hình tượng hổ:
…Ngày nay trên bãi cỏ xưa lâu đài
lộng lẫy
Chỉ thỉnh thoảng khi nửa chiều
ốp trời tây
Đưa mình phe phẩy quật sườn gầy
Giương to cặp mắt tròn chói lọi.
Một con hổ đói
Mơ màng ngắm, ở chân trời u uất
mênh mang
Vẩn vơ bay một luồng gió theo
mây hồng.
(Phụ nữ tân văn, số 259, ra ngày 20/9/1934)
Thế rồi, khi thấy Hoài Thanh đề xuất “cần phải có và hô hào một thứ văn chương mạnh mẽ, hùng tráng để thay vào lối văn thơ buồn, bạc nhược và ủy mị hiện giờ” (Tiểu thuyết thứ Bảy, số 39, ra ngày 27/2/1935) thì Thạch Lam khởi sự trao đổi, trong đó đã có ý phiên diễn, trào lộng, tếu táo:
“Tôi cũng đồng ý với ông như vậy. Nhưng tôi không đồng ý với ông về mấy câu thơ của nhà văn sĩ ông trích ra làm thí dụ. Ông viết: “Cái lối mạnh mẽ như tôi vừa nói trên, hiện nay cũng đã có một ít. Người sơn nhân, truyện ngắn; Tiếng săng, Thơ mới của Lưu Trọng Lư; bài Con hổ trong vườn Bách thú cùng một vài truyện ngắn của Thế Lữ…
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi ngồi uống ánh trăng tan…
(Con hổ trong vườn Bách thú)
…Trước hết, tôi xin nói để ông Hoài Thanh biết: Con hổ của Thế Lữ không phải nó ngồi mà uống ánh trăng tan. Nó đứng cơ! Mà nó đương đứng tự dưng ông lại bắt nó ngồi, thì thật ông đã:
Giương mắt bé giễu cái oai
rừng thẳm…
Song sự giễu đó tưởng cũng không hề gì, vì con hổ vườn Bách thú, tuy là con hổ thực, mà nó đã bị nhốt trong chuồng rồi, ông đừng sợ” (Cuộc điểm báo. Phong hóa, số 138, ra ngày 1/3/1935).
Qua tháng sau, Thạch Lam tiếp tục lên tiếng “Đừng vịnh nữa” cảnh tỉnh lối thơ ngâm vịnh dễ dãi nhưng lại chủ ý đề cao nghệ thuật đề vịnh hình tượng con hổ mới mẻ của Thế Lữ và bắt nhịp suy diễn, cố tình tếu táo với Nguyễn Nhược Pháp:
“Các nhà văn ta - hễ trông thấy vật gì - không phải bất cứ vật gì - thường hay ngâm vịnh luôn vật đó. Ví dụ trông thấy một ông phỗng sành, nhà văn tất lẩn thẩn tự hỏi không biết ông phỗng ấy nghĩ ngợi cái gì, rồi cao hứng làm ngay một bài thơ vịnh ông phỗng… Cứ kể như thế cũng là một cái tính hay hay của con nhà văn, không lấy gì làm lạ.
Ông Thế Lữ có một lần cũng vịnh như thế. Trông thấy con hổ trong vườn Bách thú, ông không tự hỏi nó nằm đấy làm gì thì chẳng ai còn biết. Thấy đôi mắt nó lúc nào cũng sầu sầu - có lẽ nó buồn ngủ - ông ngây thơ chắc nó mơ màng nghĩ ngợi đâu đâu, chắc nó tưởng nhớ đến những chỗ rừng xanh, núi đỏ, là chỗ xưa kia nó làm chúa tể muôn loài.
Ông chắc như thế, nên ông làm một bài thơ, để mượn lời xem con hổ đó nó nói những gì. Vì ông cũng không đến nỗi ngây thơ quá mà không biết rằng con hổ nó không biết nói, nó chỉ biết gầm.
Trong bài thơ lời hổ ấy, ông đã khéo làm linh hoạt dưới mắt ta cái cảnh mạnh mẽ, phũ phàng của rừng, của núi, của gió hét, nguồn gào - cái vẻ oanh liệt oai phong của chúa rừng. Ấy cũng vì bài thơ đó, mà ông Nguyễn Nhược Pháp không bằng lòng. Ông này cũng là một nhà làm Thơ mới, mà Thơ mới của ông cũng hay lắm. Nhưng cái hay lắm của ông không muốn có bài thơ người khác hay bằng.
Trong một số báo An Nam mới, ông Nguyễn Nhược Pháp bèn bình phẩm thơ ông Thế Lữ. Ông cho rằng bài thơ hổ đó cũng hay (nghĩa là cũng hay, chứ chưa được hay lắm). Nhưng ông quyết bắt buộc Thế Lữ đã muốn tự ví mình như con hổ, rồi ông nói rằng muốn ví như thế là thường quá, không mới mẻ gì.
Có lẽ, theo ý ông muốn mới mẻ, tất phải ví mình với con vật gì là lạ, ví dụ như con giun chẳng hạn, nó là một con vật không ai ngâm vịnh bao giờ.
Tôi tưởng không phải thế. Ông Thế Lữ chắc cũng chẳng dại gì mà muốn làm con hổ, lại làm con hổ trong vườn Bách thú bị người ta nhốt. Nếu làm hổ, ông còn làm thơ sao được, và nếu làm con hổ, lỡ ông đến gần các bạn hữu thì sao? Vả lại, con hổ cũng chẳng là con vật thông minh gì, mà người ta ao ước được như nó.
Không, ông ấy không muốn làm hổ đâu, nhưng ông Nguyễn Nhược Pháp đã cố bắt buộc người ta phải thế. Ông ta chỉ thương nó mà thôi. Thấy nó là một con vật sức mạnh vô cùng. Thấy cái sức mạnh vô cùng ấy nằm im trong cũi sắt.
Lại thấy lũ người xem “ngạo mạn ngẩn ngơ” mà ngẩn ngơ thật - giương đôi mắt bé giễu cái oai rừng thẳm. Vì đã có mấy cái then sắt chắn ngang. Thấy như vậy, ông có ý bất bình, tức thay cho con hổ đấy thôi”...
Đến đoạn cuối, Thạch Lam thăng hoa, cực đoan lối phê bình tếu táo, bao biện, suy diễn:
“Như thế cũng là thường tình của con nhà văn lắm. Mà nếu, ai vịnh con gì là muốn làm con ấy, thì chết người ta, còn gì nữa. Nếu vịnh con chó đá là muốn làm con chó đá, vịnh con mèo là muốn làm con mèo, vịnh ông phỗng sành là muốn làm ông phỗng sành, thì những nhà văn sĩ xưa nay, đã lâu, không còn là người nữa.
Như vậy, ông Yên Đổ đã có lúc làm ông phỗng, mà vua Lê Thánh Tôn đã có lúc làm con… cóc. Và ông Thế Lữ đã có lúc làm con hổ. Còn ông Nguyễn Nhược Pháp, chắc ông không muốn làm con gì cả, mà, thật ra, cũng chẳng ai muốn, chứ chẳng phải mình ông có cái tài đặc biệt đó.
Nhưng, ông không muốn, ông cũng chỉ dám như những lũ người kia trong vườn Bách thú, đứng ngoài cũi sắt mà ngạo mạn, giương mắt bé giễu cái oai rừng thẳm là cùng. Ông cho con hổ là thường. Ông cho nó là thường, nhưng ông thử mở cũi sắt mà vào trong đó với nó xem. Ông cứ thử vào xem!” (Cuộc điểm báo. Phong hóa, số 144, ra ngày 12/4/1935).
(Còn nữa)