Ngân sách Nhà nước chi cho giáo dục đại học thấp, đồng thời giảm liên tục, nhưng học phí trường công không được tăng theo lộ trình phù hợp dẫn đến nguồn thu của các trường hạn hẹp, khó cân đối thu chi để duy trì, nâng cao chất lượng đào tạo. Giải pháp nào cho khó khăn này?
TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến - nguyên Trợ lý Bộ trưởng Bộ GD&ĐT: Thay đổi tư duy về nguồn lực trong xã hội hóa giáo dục đại học

Cho đến nay, trọng tâm của xã hội hóa giáo dục là huy động sự đóng góp về nguồn lực tài chính của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp, cộng đồng và đông đảo nhân dân, trong và ngoài nước. Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 4/6/2019 của Chính phủ về tăng cường huy động các nguồn lực của xã hội đầu tư cho phát triển GD&ĐT giai đoạn 2019 - 2025 cũng tiếp cận như vậy.
Trong sự huy động đó, một phần chủ yếu là đóng góp bằng học phí của học sinh, sinh viên. Với xu hướng phát triển của thị trường giáo dục đại học thì sự đóng góp này sẽ tăng lên, tiến dần tới bù đắp đủ chi phí đơn vị trong giáo dục đại học.
Điều này sẽ dẫn tới một rào cản lớn - rào cản về tài chính trên con đường người học đến với giáo dục. Như thế sẽ tạo thành nghịch lý trong xây dựng nền giáo dục đại học theo hướng mở, tạo điều kiện học tập suốt đời cho mọi người mà Việt Nam hướng đến vào 2030.
Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần thay đổi tư duy về nguồn lực trong xã hội hóa giáo dục đại học: Chuyển từ tư duy đóng khung trong nguồn lực tài chính, sang tư duy nguồn lực mở, bao gồm mọi nguồn lực có thể có cho phát triển giáo dục đại học. Đó là các nguồn lực về ý tưởng, chính sách, công nghệ vốn được khai thác mạnh trong phát triển giáo dục đại học hiện nay trên thế giới.
Ngày nay, khi thông tin gia tăng theo hàm số mũ và tri thức nhân loại tăng gấp đôi từng ngày thì nguồn lực ý tưởng dồi dào và quan trọng. Các doanh nghiệp khởi nghiệp về bản chất là hoạt động trên cơ sở của nguồn lực ý tưởng.
Giáo dục đại học ngày nay trên thế giới phát triển nhanh theo hướng mở cũng nhờ vào nguồn lực ý tưởng từ những cá nhân và nhà trường muốn gỡ bỏ các rào cản về tài chính trong giáo dục. Tuy nhiên, chúng ta chưa thực sự coi trọng nguồn lực này, chưa chú trọng xây dựng môi trường thuận lợi cho sự phát triển các ý tưởng...
Về nguồn lực chính sách: Một chính sách tốt, như khoán 10, có thể là nguồn lực mang tính đột phá, đem lại kỳ tích. Những điểm mạnh trong giáo dục nước ta cũng có nguyên nhân chủ yếu từ nguồn lực chính sách tốt. Tuy nhiên, nguồn lực này đâu đó chưa thực sự được coi trọng.
Về công nghệ, đây là nguồn lực chủ đạo trong phát triển giáo dục đại học trên thế giới suốt hơn thập kỷ nay. Chúng ta nhận thức rõ tầm quan trọng của nguồn lực này khi từ chủ trương của Đảng (Bộ Chính trị, 2014) đến thể chế của Nhà nước (Chính phủ, 2015) đều nhằm xác lập vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của ICT trong tiến trình phát triển bền vững, hội nhập quốc tế. Điều đó mở ra cơ hội lớn cho giáo dục đại học nước ta chuyển đổi sang giáo dục đại học số, giáo dục đại học mở.
Tuy nhiên, hiện trạng phát triển ICT của Việt Nam lại đang đứng trước nhiều thách thức. Trong bước tiến chung của khu vực và thế giới về ICT thì bước tiến của Việt Nam là chậm.
Riêng trong giáo dục, phát huy nguồn lực công nghệ cũng mới chủ yếu dừng lại ở việc đưa máy tính và Internet vào trường học. Xây dựng hạ tầng ICT cần thiết cho đào tạo trực tuyến chưa được quan tâm, càng chưa có bước đi đáng kể trong xây dựng các nền tảng OER, MOOC với tư cách là nguồn lực công nghệ chủ yếu của giáo dục đại học mở.
Những bất cập trong khai thác các nguồn lực nêu trên khiến các cơ sở giáo dục đại học công lập chủ yếu dựa vào nguồn thu học phí do khó thực hiện đa dạng hóa các nguồn thu khác. Nghiên cứu của World Bank (2020) chỉ ra rằng, trong việc đa dạng hóa nguồn thu không nên trông cậy nhiều vào nguồn thu từ hoạt động chuyển giao công nghệ, bởi ngay ở Đại học Harvard thì nguồn thu này cũng chỉ chiếm 1% tổng nguồn thu từ các hoạt động gây quỹ của nhà trường.
Từ kinh nghiệm quốc tế, ba nguồn thu quan trọng nhất mà các cơ sở giáo dục đại học công lập cần khai thác là cung cấp các chương trình đào tạo thường xuyên, dịch vụ tư vấn và triển khai các hoạt động gây quỹ từ cựu sinh viên và doanh nghiệp.
Tuy nhiên, đây là cách tiếp cận theo hướng tạo thêm nguồn thu. Rất cần quan tâm đến tiếp cận theo hướng khai thác các nguồn lực nêu trên về ý tưởng, chính sách và công nghệ để nâng cao hiệu quả - chi phí, qua đó giảm chi phí đơn vị. Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học mở, giáo dục mở, công nghệ mở thì các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam cần khai thác các nguồn tài nguyên phong phú để có thể đem đến cho người học những chương trình đào tạo chất lượng cao với chi phí thấp.
PGS.TS Võ Văn Minh - Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm (Đại học Đà Nẵng): Hoàn thiện khung pháp lý về tài chính, tài sản và đầu tư

Dự thảo Luật Giáo dục đại học sửa đổi năm 2025 thể hiện nhiều đổi mới mang tính nền tảng, khẳng định bước tiến đáng kể trong tư duy quản trị và phát triển giáo dục đại học. Một trong những điểm nhấn quan trọng là các quy định liên quan đến tài chính, tài sản, đầu tư và huy động nguồn lực được cập nhật rõ ràng hơn, phù hợp với yêu cầu thực tiễn trong nước và xu thế quốc tế.
Trước hết, dự thảo đã mở rộng quyền tự chủ tài chính, khai thác và sử dụng tài sản hợp pháp, cho phép các cơ sở giáo dục đại học chủ động hơn trong phát triển, quản trị và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực. Việc bổ sung quy định về hợp tác đầu tư với tổ chức trong và ngoài nước cho thấy sự chuyển biến trong tư duy chính sách, hướng đến tiếp cận cơ chế thị trường một cách linh hoạt và hiệu quả.
Đáng chú ý, đây là lần đầu tiên mô hình hợp tác công - tư (PPP) được luật hóa chính thức trong lĩnh vực giáo dục đại học. Với ý nghĩa tích cực, mô hình này mở ra khả năng hợp tác sâu rộng giữa nhà trường với doanh nghiệp, tổ chức xã hội, góp phần giảm áp lực lên ngân sách Nhà nước và đa dạng hóa nguồn lực đầu tư.
Cùng đó, dự thảo xác lập rõ vai trò của Nhà nước trong việc bảo đảm nguồn lực cho các nhiệm vụ chiến lược, đồng thời khuyến khích huy động các nguồn lực xã hội. Cách tiếp cận “kép” này vừa giữ vai trò định hướng, vừa tạo điều kiện cho các trường tự chủ và đổi mới - là một hướng đi phù hợp trong bối cảnh mới.
Để các quy định nêu trên đi vào thực tiễn một cách hiệu quả và bền vững, Dự thảo cần lưu ý: Cụ thể hóa cơ chế giám sát việc sử dụng tài sản công, trong điều kiện các trường được trao quyền tự chủ cao hơn. Việc này nhằm bảo đảm minh bạch, phòng ngừa thất thoát và nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản. Đối với mô hình PPP, tuy đã được đưa vào định nghĩa, nhưng cần bổ sung rõ hơn về nguyên tắc vận hành, điều kiện triển khai, tiêu chí lựa chọn đối tác và cơ chế chia sẻ rủi ro, nhằm tránh hình thức hóa và bảo đảm tính khả thi.
Hoạt động đầu tư nước ngoài vào giáo dục đại học cần có quy định pháp lý riêng, tạo điều kiện thu hút vốn, công nghệ và quản trị hiện đại, đồng thời bảo đảm an ninh học thuật, quyền sở hữu trí tuệ và giữ gìn bản sắc giáo dục quốc gia.
Tóm lại, tự chủ về tài chính và đầu tư là điều kiện không thể thiếu để các trường đại học phát triển bền vững, vươn lên ngang tầm khu vực và quốc tế. Dự thảo Luật sửa đổi lần này đã đặt nền móng quan trọng cho tiến trình đó. Tuy nhiên, để các quyền được trao có thể chuyển hóa thành năng lực thực thi, cần có các quy định pháp lý cụ thể, minh bạch, hiệu quả và khả thi trong giám sát, vận hành, kết nối và huy động nguồn lực xã hội.
Việc hoàn thiện khung pháp lý về tài chính, tài sản và đầu tư không chỉ hỗ trợ các cơ sở giáo dục đại học phát triển bền vững, mà còn góp phần xây dựng hệ thống giáo dục đại học theo hướng tự chủ - trách nhiệm - hiệu quả, phục vụ chiến lược phát triển quốc gia trong thời đại mới.
PGS.TS Trần Thành Nam, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Giáo dục (Đại học Quốc gia Hà Nội): Cần tăng tỷ lệ chi ngân sách

Giáo dục đại học hiện đại cần đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức, đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế. Đại hội Đảng XIII xác định “phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là đột phá chiến lược”. Đảng và Nhà nước đã nhiều lần khẳng định đầu tư cho giáo dục, đào tạo tối thiểu 20% tổng chi ngân sách quốc gia. Cùng với đó, chính sách khuyến khích tự chủ đại học, tăng cường kiểm định chất lượng quốc tế cũng được đẩy mạnh.
Thực tiễn cho thấy chi ngân sách cho giáo dục đại học ở Việt Nam còn hạn chế. Số liệu Bộ Tài chính cho thấy, năm 2020 thực chi cho giáo dục đại học chỉ đạt 0,18% GDP, tương đương 4,6% tổng chi giáo dục. Trong khi đó, các nước khu vực thường chi từ 1 - 1,5% GDP cho giáo dục đại học và trên 20% ngân sách giáo dục. Theo báo cáo của Bộ GD&ĐT, trung bình 60% nguồn thu của đại học công lập hiện nay trông chờ vào ngân sách Nhà nước. Điều đó cho thấy mức độ tự chủ tài chính thực tế rất hạn chế.
Dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) quy định “Nhà nước ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục đại học theo chiến lược, quy hoạch và định hướng phát triển hệ thống giáo dục đại học quốc gia; tập trung đầu tư bảo đảm đạt chuẩn cơ sở giáo dục đại học và hiện đại hóa cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo…”, nhưng không chỉ rõ mức chi tối thiểu hay cơ chế ổn định lâu dài.
Trên thực tế, Luật chưa quy định tỷ lệ tối thiểu hoặc cơ chế phân bổ theo chu kỳ nhiều năm để đảm bảo bền vững; chưa đề cập việc thành lập quỹ riêng cho giáo dục đại học để cấp học bổng, tín dụng sinh viên và hỗ trợ các hoạt động then chốt. Việc chỉ dựa vào ngân sách Nhà nước và huy động xã hội hiện nay là chưa đủ, đặc biệt khi khung học phí đang được siết chặt.
Dự thảo Luật Giáo dục đại học cũng mới dừng ở khuyến khích huy động nguồn ngoài ngân sách và ưu đãi thuế chung chung. Trong bối cảnh đó, cơ chế tài chính hiện hành vẫn thiếu tính lâu dài, chưa giải quyết được gốc rễ của tình trạng thiếu hụt tài chính trong giáo dục đại học.
Từ thực tiễn nói trên, liên quan đến tài chính trong giáo dục đại học, đề xuất đầu tiên tôi muốn nhấn mạnh là tăng cường nguồn lực cho giáo dục đại học với việc nâng tỷ lệ chi ngân sách dành cho giáo dục đại học trong tổng chi giáo dục và trong tổng ngân sách quốc gia. Mục tiêu cụ thể có thể hướng đến tối thiểu 10% GDP cho giáo dục (theo chính sách 20% cho giáo dục chung) và trong đó tăng tỷ trọng dành cho giáo dục đại học từ 5% hiện nay lên mức tương đương khu vực (khoảng 8 - 10% tổng chi giáo dục).
Thứ hai, thành lập Quỹ Quốc gia giáo dục đại học: Xây dựng quỹ học bổng - tín dụng sinh viên quốc gia, lấy nguồn từ ngân sách Trung ương và xã hội hóa (từ doanh nghiệp, tổ chức tài trợ). Quỹ này cũng hỗ trợ khởi nghiệp sinh viên và đảm bảo kiểm định chất lượng (cấp kinh phí cho các tổ chức kiểm định độc lập).
Thứ ba, có cơ chế tài chính ổn định: Cho phép các trường tự chủ tài chính hoàn toàn với quyền quyết định chi tiêu trong khả năng theo quy định của Dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi); đồng thời Nhà nước đặt hàng đào tạo và nghiên cứu theo kết quả (hiệu suất) ít nhất 3 năm/lần. Cơ chế đặt hàng theo chu kỳ dài sẽ bảo đảm nguồn thu ổn định cho trường, giảm phụ thuộc vào ngân sách từng năm.
Thứ tư, ưu đãi thuế: Mở rộng chính sách miễn giảm thuế với phần học phí dành cho đầu tư phát triển của các trường. Ví dụ, miễn thuế VAT trên phần đầu tư cơ sở vật chất, miễn thuế thu nhập doanh nghiệp với các hoạt động kinh doanh - dịch vụ hỗ trợ giáo dục đại học.
Dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) có đề cập đến ưu đãi thuế chung cho giáo dục đại học, cần bổ sung quy định miễn trừ rõ ràng cho các hoạt động liên quan đến giảng dạy, nghiên cứu, đặc biệt ở cơ sở công lập không vì lợi nhuận.
Trên cơ sở lý luận khoa học và thực tiễn trong nước, quốc tế, các kiến nghị trên mong được đưa vào Dự thảo Luật để hoàn thiện chính sách, tạo động lực phát triển cho giáo dục đại học nước nhà. Việc cụ thể hóa tỷ lệ chi ngân sách, thiết lập quỹ quốc gia, phân tầng hợp lý và thúc đẩy tự chủ mạnh mẽ sẽ là những bước cải cách đột phá, giúp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và vị thế của giáo dục đại học Việt Nam trong tương lai.