Người thầy đầu tiên

GD&TĐ - Hơn năm mươi năm trước, ở xóm Cải miệt dừa xa xôi hẻo lánh quê tôi làm gì có trường mẫu giáo cho những cánh chim xanh bay đến mà học.

Ảnh minh họa/INT
Ảnh minh họa/INT

Duy có mỗi cụ già giàu lòng nhân ái, mở lớp vỡ lòng, dạy cho lũ trẻ hôi bùn, hôi đất chúng tôi dăm ba con chữ để biết đọc biết viết mà lận lưng. Chỉ một năm học thôi rồi… tốt nghiệp. “Trò” nào muốn học nữa thì xin lên trường sơ học gần quận lỵ học tiếp. Ấy vậy mà không ít “trò” hồi ấy có bao nhiêu đó rồi “ra trường”, lấy làm hành trang vào đời như là bửu bối.

Cụ già ấy dạy chúng tôi bằng tất cả tấm lòng nhân ái hơn là phương pháp sư phạm. Vì chữ nghĩa ông chẳng có là bao. Nghe đâu hồi trước ông có theo Việt Minh. Khi khai lý lịch, ở mục trình độ học vấn, ông điền vào mấy chữ: Biết đọc, biết viết. Thảo nào ông ngại chúng tôi gọi bằng thầy, mà “bắt” chúng tôi gọi bằng… ông Ba.

Ông Ba của chúng tôi mang guốc dông, (tự đẽo lấy) thường mặc áo bà ba “lên lớp”. Râu ông bạc phơ, tóc cũng bạc phơ, búi đứng trên đỉnh đầu. Thầy tựa như ông tiên xuống độ trì cho chúng tôi vậy. Ông gội tóc bằng nước tro từ vỏ dừa, chẳng có mùi hương gì. Chỉ có mùi thuốc rê thường ngày ông thả vào mây trắng, thả vào hồn chúng tôi vương vấn ân tình ngọt ngào, thanh thiết mang theo đến tận bây giờ.

Lớp học chúng tôi dao động từ 10 - 15 “trò”. Và, tuổi thì từ sáu, bảy đến mười bốn, mười lăm. Nên có mấy “trò” bỏ học chừng một năm là ra vùng giải phóng, ôm súng đánh giặc. Ông Ba lấy nhà làm lớp học. Bàn ghế là chiếc quả lộ dùng để ngồi ăn cơm. Có hôm mùi nước mắm, mùi thức ăn lau chùi không sạch xông lên hôi rình.

Ông sống độc thân, nên vừa “đứng lớp” vừa làm… nội trợ. Khói bếp bay lên nghi ngút cũng vui vui, ấm áp làm sao! Có khi chúng tôi ngồi học mà nhai kẹo đậu phộng rôm rốp, ông bắt gặp, “lườm” một cái bén ngót, vậy là chúng tôi tái mặt, giấu vào túi quần. Cuối tháng, thu được vài chục đồng học phí, ông mua kẹo da trâu, bánh vòng đãi học trò, nhằm để… khuyến học.

Là thầy “tay ngang”, nên ông cứ mua sách ở tiệm tạp hóa, mang về khen lấy khen để rồi dạy chúng tôi. Giờ giấc thì không chừng không đổi. Buổi sáng dạy một lớp, buổi chiểu dạy một lớp. Ông bảo với phụ huynh: “Dạy cho tụi nó chừng mươi, mười lăm đứa vậy mới… thông”.

Khi chúng tôi đến, thấy đông đủ là ông đập chiếc roi tre xuống mặt quả lộ. Phản xạ có điều kiện, vậy là chúng tôi ùa vào giành chỗ ngồi như lũ gà con giành ăn. Khi nào… mất hứng thì ông cho nghỉ sớm. Cứ ngỡ dạy chơi chơi, học chơi chơi, nhưng khi trò nào không chăm học, không ngoan là ông nghiêm khắc roi vọt, để rồi sau đó ông xót lòng lăn đôi dòng lệ!

Ngoài chương trình học, thỉnh thoảng ông còn kể chuyện ngụ ngôn, lịch sử, khơi gợi tình yêu nước. Thì ra có mấy “trò” hồi đó theo cách mạng là do ông làm “mai mối”.

Người thầy đầu tiên của chúng tôi ở xóm Cải ngày nào cũng giống như thầy Đuysen – nhân vật trong tác phẩm “Người thầy đầu tiên” nổi tiếng của nhà văn người Kyrgyzstan Aitmatov, thuộc chưa hết mặt chữ cái. Nhưng sống hết mình, cống hiến hết mình cho cuộc đời, cho lũ trẻ. Thầy chúng tôi không có được cô học trò Altưnai mồ côi cha mẹ, sống giữa thảo nguyên như học trò của thầy Đuysen sau là viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học.

Nhưng trong lũ chúng tôi ngày nào học “Trường Ông Ba”, bây giờ người là sĩ quan quân đội, người là bác sĩ, người nối nghiệp thầy theo ngành sư phạm… tất cả đã bước vào tuổi hưu trí. Ông Ba đã bay vào mây trắng. Lớp học thân yêu ngày xưa cũng đã bay vào mây trắng.

Điều ấy là cuộc đời mang đầy ý nghĩa nhân văn, được ông Ba – người thầy đầu tiên chưng cất, thết đãi chúng tôi như rượu quý, đến say nồng, không bay về đâu cả. Nó đậu xuống lòng nghĩa nhân của chúng tôi đến vĩnh hằng. Và luôn bừng dậy vào dịp kỷ niệm Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 hay vào mùa tựu trường hằng năm.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ