Khai mở tiềm năng AI trong quản lý nhà nước

GD&TĐ - Hiện nay đã có một số cơ quan Nhà nước ở Trung ương và địa phương bước đầu ứng dụng AI vào hoạt động quản lý Nhà nước, cung cấp dịch vụ công.

Minh họa/INT
Minh họa/INT

Theo Báo cáo Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong các cơ quan Nhà nước ở Việt Nam: Đánh giá mức độ sẵn sàng và khuyến nghị do Viện Nghiên cứu Chính sách và Phát triển Truyền thông (IPS) thực hiện vừa được công bố mới đây, việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong các cơ quan Nhà nước dù đã có những thành công ban đầu nhưng vẫn còn nhiều hạn chế… do thiếu cơ chế tài chính, cơ sở hạ tầng và khung pháp lý. Bởi vậy, nếu không nhanh chóng khai mở tiềm năng, khu vực công có thể tụt lại phía sau trong “cuộc đua” số hóa.

Báo cáo chỉ rõ, hiện nay đã có một số cơ quan Nhà nước ở Trung ương và địa phương bước đầu ứng dụng AI vào hoạt động quản lý Nhà nước, cung cấp dịch vụ công. Cụ thể như hệ thống trợ lý ảo trong lĩnh vực hành chính công, phần mềm nhận diện khuôn mặt trong an ninh trật tự, hệ thống giám sát giao thông thông minh... Tuy nhiên, vẫn còn nhiều “khoảng trống” cần được điều chỉnh để bảo đảm AI phát triển bền vững và hiệu quả.

Những “khoảng trống” này, theo phân tích của đại diện Vụ Khoa học Kỹ thuật và Công nghệ, Bộ KH&CN thì dù hệ thống dữ liệu đã được liên thông, liên kết, chia sẻ nhưng vẫn còn phân tán, chưa tập trung. Các ứng dụng cũng không đồng bộ nên ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào các hoạt động công gặp một số khó khăn. Bên cạnh đó, hạ tầng dữ liệu, các chuyên gia vận hành, khai thác cũng đang trong tình trạng thiếu hụt.

Ngoài ra, do tốc độ phát triển nhanh của công nghệ, nhiều ứng dụng được triển khai nhưng tốc độ xây dựng chính sách còn chưa theo kịp. Việc tích hợp AI ở khu vực công vẫn thiếu căn cứ pháp lý, chưa có hướng dẫn cụ thể và cũng chưa chú ý đến rủi ro khi ứng dụng AI, chưa quan tâm đến vấn đề bảo vệ quyền riêng tư, dữ liệu cá nhân. Đặc biệt, những vấn đề như đạo đức trí tuệ nhân tạo cũng cần “tăng tốc” để theo kịp sự phát triển.

Ứng dụng AI trong hoạt động của khu vực công còn rất nhiều tiềm năng, nhất là ở các khía cạnh hỗ trợ năng lực ra quyết định chính sách, nâng cao hiệu suất công việc, cải tiến cung ứng dịch vụ công và là xu thế tất yếu.

Tuy nhiên, để có thể đạt hiệu quả cao nhất, bên cạnh việc lấp đầy các khoảng trống nói trên, một chuyên gia cho rằng, mỗi cơ quan cần khai mở tiềm năng này bằng việc xác định rõ “bài toán” riêng của mình nhằm lựa chọn công nghệ trí tuệ nhân tạo phù hợp.

Ngoài ra, phải đánh giá mức độ sẵn sàng của nội bộ tổ chức để xây dựng lộ trình triển khai hiệu quả. Việc tận dụng dữ liệu, hạ tầng hiện hành, mở rộng nguồn dữ liệu và phát triển các ứng dụng trí tuệ nhân tạo cũng phải được khai thác hiệu quả hơn. Đặc biệt, việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo phải có chọn lọc, thiết thực và phù hợp với điều kiện thực tế và nhu cầu cụ thể chứ không chạy theo phong trào.

Những lợi ích của ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong khu vực công là hiển nhiên và rõ ràng nhưng vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế. Nhưng cũng bởi vậy nên dư địa để phát triển là rất lớn nên Nghị quyết 57-NQ/TW đã nêu rõ, phát triển nhanh và bền vững, từng bước tự chủ về công nghệ, nhất là công nghệ chiến lược. Ưu tiên nguồn lực quốc gia đầu tư cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Phát huy tối đa tiềm năng, trí tuệ Việt Nam gắn với nhanh chóng tiếp thu, hấp thụ, làm chủ và ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến của thế giới. Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng, chú trọng nghiên cứu cơ bản, tiến tới tự chủ và cạnh tranh về công nghệ ở một số lĩnh vực Việt Nam có nhu cầu, tiềm năng, lợi thế…

Đây sẽ là “kim chỉ nam” để phát triển khoa học, công nghệ, trong đó có AI. Bởi như khẳng định của một chuyên gia thì với chiến lược đúng đắn, đầu tư hợp lý và bảo đảm về đạo đức, trí tuệ nhân tạo có thể trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy phát triển quốc gia và tiến bộ con người.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ