Với những ai xem phim cổ trang Trung Quốc, chắc hẳn chẳng lạ gì với hình ảnh những phi tần nương nương cả đời chỉ quanh quẩn trong cung điện, một khi đã bước chân vào Tử Cấm Thành thì giống như là "bước chân đi cấm kì quay trở lại" vậy.
Ngoài nhóm phụ nữ được gửi vào cung điện để làm người hầu và nô tì thì có một nhóm phụ nữ được tuyển chọn để có nhiệm vụ sinh con cho hoàng đế.
Những người sinh được con cho hoàng đế sẽ được nâng lên các vị trí cao hơn trong Nội cung. Tuy nhiên, để có thể bước chân được vào đây thì lại là cả một quá trình gian nan và khó khăn mà không phải chỉ có sắc đẹp là tất cả.
Từ triều đại nhà Tấn (265 - 420 sau Công nguyên), phụ nữ đã được tuyển chọn để tiến cung, thường được gọi là các Tú nữ. Đến triều đại nhà Minh, nhà nào có con gái cũng phải đưa con đi thi tuyển chọn.
Theo các đạo luật, tất cả phụ nữ trẻ chưa kết hôn đều phải trải qua quá trình tuyển chọn Tú nữ. Chỉ những cô gái đã kết hôn, bị khuyết tật, dị tật mới được miễn tham gia.
Tuy vậy, đến thời Thuận Trị nhà Thanh, phần lớn những phụ nữ tiến cung đều được giới hạn trong các gia đình có Bát Kỳ (là một chế độ tổ chức quân sự chính trị của người Mãn), chủ yếu là người Mãn Châu và Mông Cổ.
Dưới triều đại nhà Thanh, các cô gái sẽ được đưa đến Thần Vũ Môn vào ngày thi tuyển. Họ sẽ được đi cùng cha mẹ hoặc người thân gần nhất, cùng với người đứng đầu thị tộc và các quan chức địa phương.
Nền tảng xã hội không tạo ra rào cản và nhiều hoàng đế đã chọn cho mình các phi tần từ thường dân. Chỉ riêng có hoàng hậu là ngoại lệ, đây là người luôn phải xuất thân trong một gia đình làm quan chức cấp cao.
Sẽ có khoảng 100 tú nữ được tuyển chọn qua nhiều đêm, cơ thể của các tú nữ cũng được kiểm tra xem có bị mắc những bệnh về ngoài da, lông trên cơ thể, mùi cơ thể và vô số những vấn đề sức khỏe khác hay không.
Những người khi đã được tuyển chọn vào vòng gần cuối sẽ bắt đầu được đào tạo về cung cách, cử chỉ, dáng đi. Thậm chí, các tú nữ còn được học các môn nghệ thuật như vẽ tranh, đọc, viết, cờ vua, khiêu vũ, làm thơ...
Cuối cùng, những người nổi bật nhất sẽ có một khoảng thời gian để hầu cận Thái Hậu, chăm sóc đến các nhu cầu hàng ngày của bà. Bên cạnh đó, những người này cũng sẽ phải trải qua một cuộc kiểm tra trong khi ngủ để tìm ra mọi thói quen xấu về đêm như ngáy, phát ra mùi hôi, nói mớ, mộng du...
Quy trình tuyển chọn phi tần nghiêm ngặt
Năm 1621, Hoàng đế nhà Minh, Minh Tông Hy đã gửi các hoạn quan đi khắp đất nước để tuyển chọn 5000 cô gái xinh đẹp tuổi từ 13-16 để tiến cung.
Trong ngày đầu tiên, 5000 cô gái sẽ xếp thành từng hàng 100 người theo độ tuổi. Khoảng 1000 người sẽ bị loại vì quá cao, quá thấp, quá béo hoặc quá gầy.
Ngày thứ 2, các hoạn quan sẽ là người trực tiếp kiểm tra cơ thể của các cô gái và đánh giá giọng nói, cách cư xử, cung cách của họ. 2000 cô gái sẽ được loại bỏ trong ngày này.
Ngày thứ 3 được dành để quan sát bàn chân, bàn tay, và chuyển động của cơ thể. Kì kiểm tra này sẽ loại khoảng 1000 người.
1000 người còn lại sẽ tiếp tục trải qua các cuộc kiểm tra về phụ khoa và khoảng 700 người sẽ bị loại sau kì kiểm tra này.
300 người còn lại sau đó sẽ được gửi vào cung điện để trải qua một loạt các bài kiểm tra kéo dài cả tháng về trí thông minh, công dung ngôn hạnh, khí chất và đạo đức.
50 cô gái xuất sắc nhất sẽ được kiểm tra và phỏng vấn thêm về toán học, văn học, nghệ thuật... Và cuối cùng, chỉ 1 trong những người này mới được hoàng đế chú ý và chiếm được tình cảm của ngài.
Số phận của những tú nữ còn lại hầu hết dành cả đời trong sự cô đơn, ghen tuông và hận thù. Bởi vậy mới nói, vào giai đoạn lịch sử này của Trung Quốc, vẻ đẹp giống như là một lời nguyền hơn là một phước lành.
Và đương nhiên, các phi tần này sau khi được tuyển chọn sẽ bị nghiêm cấm quan hệ tình dục với bất kì ai khác ngoài hoàng đế. Hầu hết mọi động thái của họ đều bị giám sát bởi các hoạn quan, những người nắm giữ quyền lực rất lớn trong cung điện.
Trước khi hoàng đế đến hậu cung của họ, các phi tần sẽ phải tắm rửa thật sạch sẽ và phải được thái y kiểm tra tổng quát mới được cho diện kiến nhà vua.
Các phi tần hầu hết đều có nơi ở riêng, và một ngày của họ sẽ được lấp đầy bởi các hoạt động như trang điểm, may vá, làm nghệ thuật hay giao tiếp với các phi tần khác. Nhiều người trong số các phi tần dành cả cuộc đời mình trong cung điện mà không một lần nào được nhìn thấy khuôn mặt của Hoàng đế.
Chế độ đa thê
Chế độ đa thê là thông lệ phổ biến của Trung Quốc vào thời phong kiến, mặc dù chỉ có những người đàn ông ở tầng lớp trung lưu và thượng lưu mới đủ khả năng để cưới nhiều vợ. Đây được coi là một sự khẳng định về vị thế và quyền lực của đàn ông, với sự hiện diện của càng nhiều người phụ nữ bên cạnh mình càng thể hiện rõ sự mạnh mẽ của người đàn ông đó.
Trọng tâm của chế độ này là sự nối dõi và kế thừa gia tộc. Nho giáo nhấn mạnh khả năng "tề gia trị quốc" của một người đàn ông, và trong trường hợp của Hoàng đế, việc đảm bảo có một người kế vị ngai vàng là điều tối quan trọng.
4 nguyên tắc đa thê ở Trung Quốc thời phong kiến bao gồm:
1. Sự phân biệt rõ ràng giữa vợ chính và vợ lẽ
Vợ chính là người vượt trội và quyền lực hơn tất cả những người vợ khác. Vợ chính chịu trách nhiệm tuân thủ các nguyên tắc đa thê cao hơn, đồng thời là người cố vấn và điều hòa không khí trong gia đình.
2. Phụ nữ không được ghen
Phụ nữ, đặc biệt là vợ chính, phải vượt lên những cảm xúc đơn thuần của mình. Vợ chính phải đặt niềm tin rằng mình đang sống cho một mục đích cao cả hơn vì vậy không được phép ghen tị, ganh đua hay hận thù.
3. Sự ưu ái có thể làm đảo lộn trật tự ổn định của chế độ đa thê
Người chồng không nên có sự ưu ái, yêu thương với một người vợ nào, đồng thời cũng không nên để bất kì người vợ nào độc chiếm mình. Tình yêu phải được phân phối đồng đều giữa các bà vợ, điều đó có nghĩa là sự gắn bó mật thiết sẽ không được chấp nhận.
4. Chế độ đa thê chỉ có thể tồn tại bằng cách tuân thủ một hệ thống phân cấp nghiêm ngặt
Mỗi triều đại lại có bộ danh hiệu và cấp bậc riêng cho các bà vợ hoàng cung. Hoàng hậu xếp ở vị trí cao nhất, với rất nhiều những quý phi và phi tần bên dưới mình. Thứ bậc được xác định tại những thời điểm cụ thể, tuy nhiên phân tầng quyền lực này cũng sẽ thay đổi khi có một người được ban tước hiệu mới.
Lịch thị tẩm của Hoàng đế
Người ta tin rằng, phân bổ thời gian để Hoàng đế có thể thị tẩm các cung tần mỹ nữ một cách hợp lý là điều cần thiết để duy trì long thể của Hoàng đế cũng như sự thịnh vượng của toàn bộ đế chế.
Lịch Trung Quốc ở thế kỉ 10 không sử dụng để theo dõi thời gian mà là để Hoàng đế có được một thời gian biểu điều độ. Thời điểm Hoàng đế thị tẩm với ai sẽ được các quan ngự sử ghi chép lại để phục vụ cho mục đích sau này.
Ở Trung Quốc và một số quốc gia Châu Á khác, tuổi được xác định từ thời điểm thụ thai chứ không phải thời điểm hạ sinh. Người Trung Quốc tin rằng phụ nữ có khả năng thụ thai nhiều nhất vào thời điểm trăng tròn, khi Âm, sinh khí của người phụ nữ đủ mạnh để kết hợp với Dương, sinh khí của nhà vua.
Hoàng hậu và quý phi sẽ nhập sàng cùng với Hoàng đế vào thời điểm trăng tròn vì người ta tin rằng những đứa trẻ được sinh ra sẽ có đức tính mạnh mẽ như Thiên tử.
Các phi tần ở đẳng cấp thấp hơn sẽ được sắp xếp cho ngủ với vua ở những ngày khác, thường là những ngày trăng mới để nuôi dưỡng khí Dương cho Hoàng đế.
Bi kịch của một hồng nhan được sủng ái
Trân Phi được đưa vào cung vào năm 1899 dưới thời Hoàng đế Quang Tự khi mới chỉ 13 tuổi. Trân Phi là một người phụ nữ xinh đẹp, thông minh, là người mà Hoàng đế Quang Tự hết mực sủng ái.
Cô cũng chiếm được sự ảnh hưởng rất lớn trong triều đình lúc bấy giờ. Với cá tính mạnh mẽ, cô ghét các quy tắc luật lệ và thường có xu hướng nổi loạn khiến Từ Hy Thái Hậu vô cùng ghét bỏ và tức giận. Từ Hy Thái Hậu liên tục tìm kiếm nhiều cái cớ để trừng phạt cô.
Vào ngày 20/6/1900, Liên minh Tám quốc gia đã bao vây Bắc Kinh, Từ Hy buộc Hoàng đế Quang Tự phải chạy trốn cùng mình đến Tây An. Trước khi cả hai rời đi, Từ Hy Thái Hậu đã ra lệnh cho Trân Phi tự sát với lý do tuổi trẻ và sắc đẹp của cô sẽ gây nguy hiểm cho hoàng tộc cũng như mang lại sự ô uế cho hoàng tộc nếu cô bị lính nước ngoài hãm hiếp.
Trân Phi không chấp thuận, thay vào đó, cô yêu cầu được gặp mặt Hoàng đế để nói chuyện. Nhiều người tin rằng, Từ Hy Thái Hậu sau đó đã sai người dìm chết Trân Phi xuống một cái giếng phía sau Cung điện Ninh Hạ.