Những vất vả ấy, các thầy, cô giáo không một lời kêu ca, phàn nàn vì với họ đó là công việc, là trách nhiệm với nghề và học trò.
Thầy đi tìm trò
Thay vì về với gia đình để nghỉ ngơi sau thời gian dài vất vả ở trường trong suốt năm học, cứ vào trung tuần tháng 7, thầy Hoàng Sỹ Xuân, Hiệu trưởng và thầy Nguyễn Văn Quý, Phó Hiệu trưởng Trường PTDTBT THCS Mường Lý, huyện biên giới Mường Lát (Thanh Hóa) lại quay trở lại đơn vị.
Gia đình thầy Xuân, thầy Quý đều ở TP Thanh Hóa, cách đơn vị công tác gần 230 km đường núi, đèo dốc. Sở dĩ, các thầy lên trường sớm như vậy là để chuẩn bị công tác tuyển sinh đầu cấp (lớp 6) và vận động học trò ra lớp.
“Nếu như các trường ở miền xuôi, thành thị, ngày 1/8 hằng năm, giáo viên mới tập trung tại trường để trả phép. Còn với chúng tôi, cứ tầm trung tuần tháng 7, ban giám hiệu và giáo viên lại trở lại trường để làm công tác tuyển sinh và đi... tìm học trò.
Để vận động học trò ra lớp, thầy cô phải trải qua nhiều khúc cua nguy hiểm, trèo đèo rồi lội suối mới tới được bản xa xôi, heo hút. Thế nhưng, đâu chỉ có 1 lần là ổn, nhiều gia đình học sinh khi chúng tôi đến, họ đều đóng cửa đi nương, rẫy vắng nhà. Vậy là, đành phải quay về trường, rồi mấy hôm sau trở lại”, thầy Xuân kể.
Mường Lý là địa phương đất rộng, người thưa và có tới 15 bản. Bà con ở Mường Lý chủ yếu là đồng bào Mông. Nhiều bản như: Trung Thắng, Sài Khao... cách trường khoảng 20km đường rừng. Vì thế, mỗi lần giáo viên đi vận động học sinh đến trường là cả quá trình vất vả, gian truân.
Cô giáo của Trường Mầm non Tam Chung (Mường Lát) bị ngã trên đường vào điểm trường bản Ón. |
Đường từ trung tâm xã Mường Lý lên bản Sài Khao dài hơn 20 km. Ngày trước, khi chưa có đường bê tông, các thầy, cô giáo phải “đánh cược” tính mạng của mình trên cung đường này mỗi khi đi tìm học trò, để động viên các em đến lớp.
“Khi chưa có đường bê tông, mỗi lần chúng tôi lên bản đi vận động học sinh, phải mất 3 - 4 giờ “bò trườn” trên cung đường rừng trơn trượt, dốc cao dựng đứng. Giờ đây, Nhà nước đầu tư dự án đường giao thông từ trung tâm xã Mường Lý đi bản Sài Khao đã cơ bản.
Tuy nhiên, thời điểm trời mưa, đi vận động học sinh vẫn còn rất vất vả, vì dốc cao, quanh co, khúc khuỷu nên rất khó khăn cho việc di chuyển bằng xe máy. Biết rằng, có những chuyến đi thực sự là nguy hiểm, nhưng mọi người đều xác định rằng: Nguy hiểm cũng phải đi, chứ không thể ngồi chờ học trò tự tìm đến lớp như ở nơi khác được”, thầy Quý bộc bạch.
“Những hôm trời nắng, thầy cô đi vận động học trò còn đỡ vất vả. Gặp hôm thời tiết xấu, khi đã vào đến bản rồi, mà trời mưa to quá, có khi giáo viên phải ngủ lại, do nước lũ cắt qua suối, không về được”, thầy Thủy chia sẻ.
Tương tự thầy Xuân, thầy Quý, là Hiệu trưởng Trường PTDTBT THCS Trung Lý, thầy Nguyễn Duy Thủy cũng khá lo lắng khi năm học mới đến gần. Công tác chuẩn bị, tổ chức cho giáo viên đi vận động học sinh đầu cấp đến trường là vấn đề đáng lo ngại. Bởi lẽ, từ nhà trường đến bản xa nhất (bản Tà Cóm) là 50 km đường rừng.
Xã Trung Lý, cũng là địa phương đất rộng, người đông, có địa hình phức tạp và chủ yếu là người Mông, Thái sinh sống. Toàn xã có 15 bản, trong đó nhiều bản xa xôi, hẻo lánh như: Tà Cóm, Cá Giáng, Cánh Cộng, Co Cài, Pa Búa, Nà Ón… có nhiều em học điểm lẻ tiểu học nên thầy cô phải chủ động đến đón trò vào lớp 6.
Nhiều năm gắn bó với vùng biên giới, thầy Lê Thế Lập, Phó Hiệu trưởng Trường PTDTBT THCS Trung Lý bảo rằng: “Cũng may, nhà trường có nơi ăn, ở bán trú. Các em đi học được hưởng tiền hỗ trợ hằng tháng, gạo ăn đầy đủ…, điều kiện học tập cũng tốt hơn, nên không còn cảnh học sinh bỏ học như trước. Thế nhưng, đối với học sinh đầu cấp, lần đầu tiên xa gia đình, xa bản…, các em cũng bị ảnh hưởng tâm lý và có nhiều em không muốn đi”, thầy Lập tâm sự.
Ánh mắt, nụ cười rạng ngời của trẻ ở điểm lẻ bản Ón - Trường Mầm non Tam Chung (Mường Lát, Thanh Hóa). |
Cô đi “kéo” trẻ
Ở các huyện vùng cao, biên giới của tỉnh Thanh Hóa hiện có hàng trăm, hàng nghìn giáo viên “cắm bản”. Tại những điểm trường xa xôi, hẻo lánh ấy, khi bước vào năm học, các thầy, cô giáo vẫn luôn có mặt để truyền thụ kiến thức cho học trò. Thế nhưng, đối với họ, mỗi lần đến điểm trường, là những lần đối mặt với nhiều mối hiểm nguy đang rình rập bởi đò giang cách trở, vượt suối, băng rừng...
Cô Hàn Thị Giang, Hiệu trưởng Trường Mầm non Tam Chung (Mường Lát) cho biết, mặc dù không phải qua sông, qua đò như những nơi khác, nhưng trước kia mỗi lần giáo viên vào điểm trường bản Ón (Tam Chung) - điểm lẻ xa xôi, khó khăn nhất của trường, là một lần đối mặt với hiểm nguy. Còn bây giờ, mặc dù đường giao thông cứng hóa, nhưng mỗi khi trời mưa, các cô giáo vẫn không thể về trong ngày được.
“Vào những ngày trời nắng ráo, các cô từ ngoài trung tâm thị trấn đi xe máy vào điểm trường, với khoảng hơn 20km. Đến cuối ngày, các cô lại chạy xe máy trở về với gia đình, vì đa số đang nuôi con nhỏ”, cô Giang chia sẻ.
Có thể nói, giáo viên “cắm bản” ở các huyện vùng cao, biên giới Mường Lát của tỉnh Thanh Hóa vẫn hằng ngày đối mặt với những hiểm nguy rình rập. Có điểm trường dù xe máy vào được đến nơi, nhưng cung đường rừng, đèo dốc, khúc khuỷu, trơn trượt, lầy lội mỗi khi trời mưa... là những mối nguy hiểm trực chờ.
Dù vậy, lòng yêu nghề, tình thương dành cho học trò đã tiếp sức cho các thầy cô. Có những tình huống biết là vô cùng khó khăn, nhưng nếu nhà giáo “chùn bước” thì những đứa trẻ ở vùng sâu, xa, hẻo lánh, khó khăn... sẽ thất học.
Cô Giang bộc bạch, tâm nguyện thì rất nhiều, nhưng đôi khi các cô giáo của trường “lực bất tòng tâm”. Trước mắt, nhà trường mong muốn cơ sở vật chất ngày càng khang trang, để có điều kiện nuôi dạy, chăm sóc trẻ tốt hơn. Đồng thời, nâng cao chất lượng giáo dục để trẻ được học tập trong môi trường an toàn, thân thiện, hướng tới xây dựng trường học hạnh phúc.
Thầy giáo Trường PTDTBTTHCS Trung Lý (Mường Lát, Thanh Hóa) đi vận động HS đến trường. |
Nỗ lực vì trò
Trường Mầm non Tam Chung có 7 điểm trường, một điểm đặt tại trung tâm xã và 6 điểm lẻ đặt tại các bản. Tam Chung là xã thuần nông, người dân chủ yếu làm nương rẫy và phụ thuộc vào thiên nhiên là chính. Địa hình rất phức tạp, việc đi lại gặp nhiều khó khăn.
“Trong những năm qua, nhà trường luôn nhận được sự quan tâm tạo điều kiện giúp đỡ của các cấp lãnh đạo, cơ quan chức năng, ban, ngành đoàn thể. Bên cạnh đó, được sự ủng hộ nhiệt tình của các bậc phụ huynh đóng góp ủng hộ, phối hợp với nhà trường trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ.
Nâng cao chất lượng toàn diện là mục tiêu phấn đấu của nhà trường thực hiện tốt công tác xã hội hóa giáo dục, huy động số trẻ trên địa bàn ra lớp, đóng góp kinh phí xây dựng cải tạo cơ sở vật chất có hiệu quả...”, cô Giang tâm sự.
Tuy nhiên, do nhà trường có tới 7 điểm lẻ, địa hình rộng, sự phân bố dân cư không đồng đều, các điểm trường còn cách xa nhau. Vì vậy, có những khó khăn không nhỏ cho công tác quản lý, chỉ đạo chuyên môn cũng như đầu tư về cơ sở vật chất. Trang thiết bị, đồ chơi, đồ dùng, tranh ảnh trực quan, đồ dùng dạy học chưa đáp ứng với yêu cầu của phổ cập.
Để “kéo trẻ” đến lớp học mầm non, giáo viên phải lặn lội vào các bản Ón, Suối Phái, Suối Lóng… những buổi chiều muộn. Bởi, nếu vào ban ngày, cha mẹ của trẻ lên nương rẫy đi làm, không thể gặp và nói chuyện được.
“Nhiều gia đình không muốn đưa trẻ tới trường khi đang nhỏ tuổi. Đặc biệt, thời gian trước, khi điểm lẻ ở bản Ón chưa tổ chức ăn bán trú được, lại càng khó vận động hơn. Rất may, điểm trường xa xôi, khó khăn nhất này đã tổ chức được bữa ăn bán trú, đó là điều chúng tôi rất mừng và cảm thấy hạnh phúc”, cô Giang bộc bạch.
Bà Nguyễn Thị Thúy, Trưởng phòng GD&ĐT huyện Mường Lát cho biết, ở huyện biên giới xa xôi, khó khăn này còn rất nhiều điểm trường lẻ mầm non và tiểu học rất khó khăn. Vì vậy, để huy động trẻ ra lớp đạt 100%, hay học sinh đầu cấp đạt yêu cầu, đang là vấn đề nan giải.
“Các thầy, cô giáo từ cấp THCS xuống bậc học mầm non đều phải tranh thủ trong thời gian nghỉ hè, thậm chí những buổi chiều muộn lặn lội đến các bản xa xôi, hẻo lánh, cách trường chính hàng chục km đường rừng để vận động phụ huynh cho trẻ và HS đến trường.
Do điều kiện kinh tế của người dân còn khó khăn nên học sinh ở đây rất thiệt thòi. Các trường PTDTBTTHCS có chế độ cho học sinh nên cũng đỡ đi phần nào. Còn các trường mầm non trên địa bàn huyện tổ chức được những bữa ăn bán trú cho trẻ, là một sự cố gắng, phấn đấu không mệt mỏi của đội ngũ giáo viên mầm non”, bà Thúy nói.
Gia đình ông Sùng A Pó, ở bản Khằm 2 (Trung Lý) có 2 con gái là Sùng Thị Dính (năm nay lên lớp 7) và Sùng Mai Giang (vào lớp 6). Khi thấy thầy giáo vào tận nhà động viên cho con đến trường đúng thời gian quy định trước năm học, ông Pó vui vẻ đồng ý.
“Cảm ơn các thầy, cô giáo và nhà trường nhiều lắm. Cháu Mai Giang mới học xong lớp 5, chưa xa nhà bao giờ cả, nên rụt rè. May có thầy giáo lặn lội đến tận nhà động viên, rồi chị gái cháu cũng kể về điều kiện ăn, ở học tại trường, nên cháu có phần mạnh dạn hơn. Vợ chồng tôi luôn động viên các con hãy cố gắng mà học cái chữ cho thật tốt, để sau này có cơ hội thoát nghèo”, ông Sùng A Pó tâm sự.