Nhiều điều đáng học tập từ kinh nghiệm đào tạo SĐH ở Mỹ
Nâng cao nhất năng lực của người tiếp nhận đào tạo, đó là nhận định đầu tiên của PGS.TS.Nguyễn Thị Bích Hà đối với đào tạo SĐH ở Mỹ. PGS.Nguyễn Thị Bích Hà cho biết, ở Mĩ cũng có hệ đào tạo tại chức Thạc sĩ và Nghiên cứu sinh (NCS) nhưng không nhiều (và thường do các Bộ hoặc các tập đoàn lớn đầu tư để đào tạo chuyên gia cho ngành mình), còn phần lớn các trường ĐH đào tạo Thạc sĩ và NCS theo hệ chính quy. Thời gian đào tạo thạc sĩ từ 1 năm rưỡi đến 2 năm; Thời gian đào tạo tiến sĩ từ 3 đến 5 năm (5 năm là cho các NCS học thẳng tiến sĩ sau khi tốt nghiệp ĐH). Thời gian đó học viên dành hoàn toàn cho việc học. Nếu hết hạn mà chưa học xong thì họ vẫn đăng kí học tiếp cho đến khi hoàn thành chương trình mới thôi.
Chương trình đào tạo ĐH ở Mĩ khá nhẹ nhàng, nhưng chương trình đào tạo SĐH, đặc biệt đào tạo tiến sĩ thì khá nặng so với Việt Nam và một số nước khác (Xin xem: Vietnamese.vietnam.usembassy.gov; brownuniversity.edu.). Ví dụ: những vấn đề KHXH bình thường, các tác giả hay tác phẩm văn học quen thuộc không hoàn toàn là đối tượng nghiên cứu và đào tạo tiến sĩ. Những hiện tượng mới, gương mặt mới, khuynh hướng đang định hình hoặc đánh giá lại những sự kiện, nhân vật quan trọng thường được quan tâm nghiên cứu. Chẳng hạn, ở khoa Hoa Kỳ học tại đại học Brown có 3 chuyên đề đào tạo SĐH về chiến tranh Việt Nam là: Chiến tranh nhân dân ở Việt Nam; Những người Mĩ chống chiến tranh ở Việt Nam; Những người Việt Nam chống chiến tranh Việt Nam ở Mĩ. Hướng mở của các chuyên đề như vậy là rộng chứ không quá quen thuộc, họ ít phải lo về độ an toàn của các vấn đề nhạy cảm như ở Việt Nam! Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu cao của việc đào tạo, môi trường đào tạo ở Mĩ rất rõ định hướng lấy người học làm trung tâm. Chẳng hạn, những ngày bình thường thư viện trường mở cửa đến 2 giờ sáng. Nếu bạn cần 1 cuốn sách mà thư viện trường không có, họ sẽ hỏi trên mạng lưới thư viện quốc gia hay các trường ĐH và nơi nào có, họ sẽ chuyển sách đến cho bạn mượn. Nếu bạn đi thư viện mà trời mưa hay lạnh hoặc không có phương tiện về, bạn gọi điện đến phòng phục vụ sinh viên của trường, họ sẽ mang xe đến đưa về miễn phí…
Bậc lương của sinh viên tốt nghiệp ĐH, thạc sĩ, tiến sĩ ở Mĩ khác nhau và điều đó khẳng định vị trí khác nhau ở các bậc học. Vì vậy, nhiều công ty hoặc cơ sở làm việc chỉ cần nhận cử nhân mà không nhận thạc sĩ hay tiến sĩ vì họ ngại phải trả lương cao cho một vị trí không cần thiết phải có học vị cao. Ở Mĩ, học càng cao, định hướng chuyên ngành càng sâu càng khó xin việc làm, vì các cơ sở có khả năng tiếp nhận những người có chuyên môn sâu không nhiều, nhưng nếu thạc sĩ và tiến sĩ đã ở đúng vị trí và bậc học của mình thì lương sẽ cao hơn hẳn lương cử nhân. Vì vậy, không phải ai cũng thích đi học thạc sĩ, NCS, nhưng nếu đã đi học thì xác định khá rõ tính chất chuyên sâu của ngành học, chấp nhận cả cơ hội lẫn khó khăn.
Trong trường ĐH, các học viên thạc sĩ hay NCS thường lên lớp nghe giảng những phần cơ bản cùng với SV, thời gian còn lại họ đi thực tế và đọc sách rất nhiều. Theo lịch hẹn, từ 1 đến 2 tuần trò mới có lịch làm việc với thày. Đến ngày làm việc đó, học viên báo cáo công việc mình đã làm, nêu vấn đề cần trao đổi hay nêu thắc mắc cần hỏi. Thày không rao giảng mà chỉ giải đáp thắc mắc. Vì vậy, nếu trò không nỗ lực tự làm việc thì không có gì để trao đổi với thày. Áp lực đó khiến học viên phải tự cố gắng rất nhiều. Ở Mĩ không có khái niệm “thông cảm”, “giảm nhẹ”, “mồm miệng đỡ chân tay” hoặc “thủ tục đầu tiên”… thày giáo không vì bất cứ lí do gì mà hạ thấp yêu cầu đào tạo. Vì vậy, có được tấm bằng SĐH thực sự là một sự khẳng định năng lực.
Các học viên thạc sĩ hay NCS cũng thường làm trợ giảng cho chính ông thày nhận hướng dẫn mình (thỉnh thoảng cũng có người trợ giảng cho thày khác). Mỗi tuần họ thường có 6 giờ làm việc với sinh viên, trong đó 4 giờ để chấm bài, chữa bài, tham dự seminar, còn 2 giờ để ngồi tại văn phòng của bộ môn (office hours) để các sinh viên có thắc mắc gì về nội dung bài giảng của thày hay đọc tài liệu có gì không hiểu thì đến văn phòng hỏi các trợ giảng. Muốn chấm được bài cho sinh viên hoặc để có thể trả lời được các câu hỏi của sinh viên, các học viên SĐH phải cố gắng vươn lên rất nhiều bằng cách tự học hoặc theo học các giáo sư. Nhờ thế mà trình độ của họ chắc chắn cao hơn sinh viên và luôn được sinh viên kính nể, tin cậy.
Để trở thành giảng viên ĐH ở Mĩ, người ta phải có bằng tiến sĩ. Sau đó họ mới bắt đầu tham gia giảng dạy ở trường ĐH và thời gian đầu luôn thay đổi môi trường giảng dạy để gia tăng các mối quan hệ nghề nghiệp và kinh nghiệm (họ dạy ở trường A khoảng 2,3 năm, rồi chuyển trường B cũng khoảng đó,…các trường đó ở các thành phố khác nhau). Sau khi trở thành PGS họ mới ổn định vị trí làm việc của mình trong một trường ĐH nào đó và làm việc như một nhà khoa học thực thụ.
Yêu cầu tối thiểu đối với một GS đại học là phải có tập bài giảng riêng của mình. Nó có thể dày mỏng khác nhau, nhiều quyển hay ít quyển nhưng không thể không có, không thể giảng chay hoặc giảng bằng bài giảng của người khác. Như vậy, thày lên lớp không phải để rao giảng mà để trao đổi với người học trên cơ sở bài giảng của thày và TLTK đã có sẵn, học trò đọc trước và giờ làm việc trên lớp trở thành giờ tranh luận khá sôi nổi về những gì trò quan tâm. Những kiến thức trên lớp không bao giờ hoàn toàn nhắc lại những gì họ đã viết trong bài giảng.
Giáo viên thường giảng cho cả 3,4 đối tượng học viên cùng một giờ lên lớp (SV, học viên MA, NCS), nhưng tùy trình độ khác nhau, người học sẽ tiếp nhận tri thức thày truyền đạt khác nhau. Tất nhiên, ngoài những giờ lên lớp cho SV mà thày yêu cầu tất cả các trò của mình đi dự, còn có giờ làm việc riêng với thạc sĩ, NCS. Nhưng những giờ lên lớp chung sẽ bổ sung kiến thức cơ bản, phổ biến nhất, đòi hỏi mọi người học chuyên ngành đó đều phải nắm vững. Hơn nữa, giờ học chung sẽ là lúc thày truyền dạy phương pháp và kiến thức cho NCS để họ tiếp tục làm việc với SV. Cách thức như vậy sẽ tận dụng tối đa thời gian và chất xám của thày.
Sau giờ lên lớp, thày ra chủ đề thảo luận, ra bài kiểm tra, bài thi cho SV. Nhưng người trực tiếp làm việc với SV, tham dự các buổi seminar, chấm bài kiểm tra, bài thi cho SV không phải là GS mà chính là các học viên thạc sĩ hoặc NCS (các trợ giảng của GS). Đấy cũng là một cách đào tạo học viên SĐH rất tốt. Nếu họ không nâng cao năng lực của mình, họ sẽ không thể chấm bài, chữa bài hoặc giải đáp thắc mắc cho SV.
Như vậy có phải các GS quá nhàn rỗi không? Không, họ phải làm việc rất nặng nề và chịu nhiều sức ép. Họ thường được mời đi dạy ở các trường ĐH, dự hội thảo hoặc thỉnh giảng trong và ngoài nước, nghiên cứu và hướng dẫn nghiên cứu… Đặc biệt, họ phải kéo được các dự án từ Chính phủ hoặc các Bộ, Ngành, Công ty… về để có kinh phí cho trường và để “nuôi” các NCS, các trợ giảng của mình. Đó được coi là một phẩm chất khoa học của ông thày. Bởi nếu đề tài dự án không có sức thuyết phục, không có giá trị thực tiễn thì sẽ không tranh được kinh phí. Cũng nhờ vậy mà các NCKH của họ thường có khả năng thực thi cao, kết quả nghiên cứu nhanh chóng được sử dụng trong đời sống và nguồn phúc lợi của các trường ĐH thường khá dồi dào. Đó là nhờ lao động trí tuệ của các nhà khoa học trong trường ĐH.
Những điều trình bày trên mới chỉ là ở một số trường đại học, nhưng không phải tất cả các trường đại học ở Mĩ đều có những ưu điểm đó. Nhiều chuyên gia giáo dục cho rằng các đại học ở Mĩ rất không đồng đều và cũng có nhiều bất cập (bài viết này chưa đề cập sâu).
Giảng đường học viện Massachusetts |
Kinh nghiệm gì cho đào tạo SĐH ở Việt Nam?
Khẳng định, đào tạo SĐH trong nước là một thành tựu lớn của ngành GD&ĐT nước ta, PGS.TS.Nguyễn Thị Bích Hà minh chứng: Đến nay chúng ta đã đào tạo được hàng vạn thạc sĩ và hàng ngàn tiến sĩ, TSKH. Nhiều trong số đó đã đi tiếp và khẳng định vị trí khoa học của mình ở trong và ngoài nước. Từ chỗ những NCS đầu tiên làm luận án rất khó khăn và lúng túng vì chính các thày cũng đang tìm đường (chúng tôi nhớ, hội đồng chấm luận án tiến sĩ KHXH đầu tiên gồm 13 GS), đến nay hoạt động này đã được quy chuẩn hóa dần và đường hướng rõ ràng hơn nhiều. Đó là điều rất đáng được khẳng định.
Tuy nhiên, PGS.TS.Nguyễn Thị Bích Hà nhận định không thể chủ quan mà nói rằng, đó đều là công đào tạo của chúng ta hoặc chúng ta đã tổ chức đào tạo tốt. Cũng không nên nói như một số nhà quản lí đã từng nói rằng, đối với đất nước VN, chúng ta nghèo, thiếu kinh nghiệm… được như vậy đã là tốt rồi. Cần bỏ dần những suy nghĩ đó để tham gia hội nhập một cách công bằng hơn và để không tự thỏa mãn với những gì mình đang có. Theo PGS.TS.Nguyễn Thị Bích Hà, với những gì nhà nước và nhân dân đã dành cho ngành giáo dục, chúng ta hoàn toàn có thể làm tốt hơn thế này, riêng với đào tạo SĐH, chúng ta càng có thể làm tốt hơn.
Đặt vấn đề về sự lãng phí chất xám, PGS.TS.Nguyễn Thị Bích Hà cho rằng, hiện tượng này ở Việt Nam có thể khắc phục được.
“Tôi có nhiều học trò, sau khi tốt nghiệp ĐH, chưa tìm được việc làm, họ liền đi học tiếp thạc sĩ mà không cần biết mình học để làm gì. Tôi cho đó là sự lãng phí chất xám và lãng phí thời gian, kinh phí đào tạo. Mục tiêu của viêc học như vậy là không rõ ràng từ phía người học. Hơn nữa, không phải môi trường làm việc nào cũng cần và sử dụng hết trình độ thạc sĩ trở lên. Vì vậy, mặc dù thạc sĩ và tiến sĩ của VN chưa nhiều, nhưng cũng cần xét rõ mục tiêu đối với người và ngành học để tránh sự lãng phí” - PGS.TS.Nguyễn Thị Bích Hà đưa ra dẫn chứng về sự lãnh phí chất xám..
Kinh nghiệm sử dụng lực lượng học viên thạc sĩ và NCS ở Mĩ theo PGS là tốt. Đây là nguồn chất xám dồi dào đang bị chúng ta bỏ phí, trong khi các GS của chúng ta chưa nhiều nhưng phải ngồi chấm từ bài kiểm tra điều kiện và đề cương seminar của SV. Nên sử dụng tốt hơn đội ngũ học viên thạc sĩ và NCS trong quá trình đào tạo để giảm gánh nặng sự vụ cho các ông thày và để nâng cao chất lượng đào tạo cho chính các học viên SĐH. Việc sử dụng đội ngũ trợ giảng có thể làm được trong trường ĐH của ta, nhưng nếu không đưa vào quy chế thì các thày không thể đòi hỏi sự tham gia của các học viên và không thể tận dụng được nguồn lực dồi dào này. Sau khi đi Mĩ về, tôi thử học tập kinh nghiệm của họ bằng cách đề nghị học viên của tôi tham dự các buổi seminar với SV và cùng chấm bài kiểm tra. Nhưng các học viên vẫn phải tham gia giảng dạy ở địa phương, hơn nữa việc đào tạo theo cách đó không nằm trong quy chế. Vì vậy, tôi chỉ có thể “nhờ” họ mà không thể đòi hỏi họ tham gia như một hình thức đào tạo.
Một trong những nhu cầu cấp thiết của hội nhập quốc tế là phải giao lưu. Cầu nối của sự giao lưu ấy chính là ngoại ngữ. Hiện nay các nhà khoa học các nước thường sử dụng chung một ngoại ngữ trung gian là tiếng Anh để trao đổi. Hơn nữa, các tài liệu về KHXH bằng tiếng Anh là phổ biến và phong phú nhất. Tuy nhiên, không chỉ tiếng Anh mà biết một ngoại ngữ nào gần với ngành học cũng đều rất quý và rất bổ ích trong nghiên cứu và giao lưu, hội nhập. Nếu không biết ngoại ngữ, người ta sẽ mất tự tin khi ra nước ngoài và công việc sẽ kém hiệu quả.
Tuy nhiên NCS, đặc biệt là NCS khoa học xã hội hiện nay kém ngoại ngữ. Như vậy, đối với họ, cánh cửa hội nhập quốc tế về NCKH chưa được mở. Sau khi thi ngoại ngữ để làm NCS hầu như người học không sử dụng ngoại ngữ nữa. Ngoại trừ các NCS vốn là giảng viên của một số trường ĐH có ý thức rèn ngoại ngữ, số còn lại không thể sử dụng được ngoại ngữ nào vào việc nghiên cứu đề tài.
Từ nhu cầu và thực trạng về trình độ ngoại ngữ của người học, PGS.Hà đề nghị các cơ sở đào tạo cần quan tâm hơn nữa đến việc tổ chức đào tạo ngoại ngữ, không phải chỉ học mấy tháng khi bắt đầu thi vào mà phải học để sử dụng được. Hơn nữa, cần nâng cao trình độ chuyên môn, chuyên ngành cho giáo viên ngoại ngữ ở các cơ sở đào tạo để họ đảm trách được nhiệm vụ nặng nề này.
Ghi nhận những thành tựu đào tạo SĐH hơn 30 năm, bên cạnh đó, PGS.Hà cũng chỉ ra một số hạn chế tồn tại. Đó là, việc tổ chức đào tạo ở một số khâu vẫn khá tùy tiện, chưa đạt chuẩn, chưa chính quy. Đa số giáo viên dạy SĐH về KHXH đều dạy chay, không có tập bài giảng chuyên đề riêng cung cấp cho học viên. Ở một số môn học, học viên phàn nàn rằng bài giảng của giáo viên không khác gì so với bài giảng cho họ khi còn là SV đại học.
Hiện nay người học, đặc biệt là học viên Hà Nội thường vừa đi học vừa kiêm nhiệm giảng dạy. Điều này khiến cho thời gian theo học của họ không đều và không thể toàn tâm toàn ý cho việc học. Lâu nay chúng ta thường lấy sự cảm thông thay cho nhiều quy tắc đối với việc học vì vậy mà mọi yêu cầu thường tự được nới lỏng. Kết quả là học viên học như thế nào tùy thuộc sự tự giác của họ chứ ít phụ thuộc vào quy chế đào tạo, nhưng kết quả luận văn tốt nghiệp của thạc sĩ thường giới hạn trong khoảng hẹp từ 9.5 đến 10 (kết quả xuất sắc). Kết quả đó chưa phản ánh đúng chất lượng đào tạo. Không đề nghị phải kéo kết quả điểm đào tạo xuống thấp hơn, PGS.Hà đưa ra đề nghị, cần nâng cao tổ chức và chất lượng đào tạo để kết quả đó gần với thực chất hơn.
Hiếu Nguyễn (ghi)