Đã có nhiều nước trên thế giới thực hiện các kỳ thi chung
Theo ông Nguyễn Đình Đức, ở nước ta trong nhiều thập niên qua, học sinh ở cuối bậc THPT phải tham gia 2 kỳ thi quan trọng: Tốt nghiệp THPT và tuyển sinh đại học, cao đẳng.
Cả hai kỳ thi này tuy có mục đích đánh giá khác nhau, nhưng có cùng bản chất khoa học, tức là đều dựa trên nền tảng tâm trắc học trong giáo dục, hay còn gọi là Khoa học Đo lường và Đánh giá (ĐL&ĐG) trong giáo dục.
Về mặt khoa học hoàn toàn có thể tích hợp hai loại dạng thức câu hỏi này vào một bài thi tổng hợp. Hơn thế, việc áp dụng các thành tựu của Khoa học ĐL&ĐG trong giáo dục và công nghệ thông tin còn giúp chúng ta từng bước thực hiện được mục tiêu “đánh giá năng lực” người học thay cho “đánh giá kiến thức”đơn thuần.
Trưởng ban đào tạo ĐHQG Hà Nội khẳng định: Việc thiết kế và triển khai một kỳ thi hợp nhất đơn giản, khách quan có độ tin cậy cao là một nhu cầu thực tiễn cấp bách.
Nó không chỉ nhằm mục tiêu xét tốt nghiệp phổ thông và tuyển sinh đại học, mà qua đó dần dần thúc đẩy sự đổi mới về chương trình, việc dạy và học ở bậc phổ thông theo hướng từ “trang bị kiến thức” sang “phát triển năng lực”.
Đã có nhiều nước trên thế giới thực hiện các kỳ thi chung, kỳ thi hợp nhất. Pháp có kỳ thi Baccalauréat, gọi tắt là Le Bac, khoảng gần 20 quốc gia Châu Âu khác có kỳ thi chung gọi là kỳ thi Matura.
Ngay tại Hoa Kỳ cũng có tốt nghiệp THPT gọi Exit Exam, thực hiện ở khoảng 27 bang. Đặc biệt, đây là yêu cầu bắt buộc của là Bang California, Vương Quốc Anh và các nước ảnh hưởng của hệ thống giáo dục của Anh (Singapore, Hông Công, ...) có kỳ thi A-Level.
Gần đây, các nước Đông Âu, nhất là Nga, Ucraina cũng chuyển sang áp dụng kỳ thi hợp nhất. Kế quả các kỳ thi này được thí sinh sử dụng làm căn cứ xét nhận bằng tốt nghiệp THPT và đồng thời đăng ký vào học đại học.
Vì là kỳ thi chung, hợp nhất, cho nên số số lượng thi sinh rất lớn, hầu hết các quốc gia đều sử dụng các bài thi chuẩn hóa (standardized test) với câu hỏi trắc nghiệm khách quan.
Chỉ khi sử dụng bài thi chuẩn hóa mới tạo thuận lợi cho việc áp dụng các công nghệ khảo thí hiện đại cũng như công nghệ thông tin, đảm bảo tính khác quan, độ tin cây cao của kỳ thi.
Một bài thi duy nhất với một buổi thi
Ông Nguyễn Đình Đức đặt vấn đề một bài thi duy nhất với một buổi thi. Bài thi này được thực hiện trên nguyên tắc:
Tách “thi/đánh giá” ra khỏi “xét tốt nghiệp hay tuyển sinh”. Việc này giúp thí sinh tránh áp lực “đỗ/trượt”, cũng tạo điều kiện các thí sinh tự phân loại, sàng lọc để đăng ký vào các trường đại học theo kết quả thi.
Thi tất cả các kiến thức mà học sinh đã được học, thi để khuyến khích, tạo động lực cho việc học toàn diện, học thực chất.
Đơn giản về tổ chức; tổng hợp và dần dần tiến đến tích hợp trong nội dung đánh giá; từng bước chuyển từ “đánh giá kiến thức” sang “đánh giá năng lực”;
Thuận tiện cho thí sinh trong việc xem đề mẫu, làm thử, luyện thi trên mạng tránh hoàn toàn việc luyện thi phức tạp tốn kém.
Khách quan và đảm bảo độ tin cậy cao; công bằng; thí sinh được chọn ngày thi, thời điểm thi, số lần thi; Coi thi đơn giản, dễ triển khai trên diện rộng, cho số đông.
Bài thi tổng hợp được thiết kế theo hình thức trắc nghiệm, gồm 4 hợp phần: Toán; Ngữ văn; Khoa học Tự nhiên; Khoa học Xã hội.
Các hợp phần Toán và Ngữ văn mỗi hợp phần có 50 câu TNKQ. Hai hợp phần tổng hợp Khoa học Tự nhiên (Lý, Hóa, Sinh) và Khoa học Xã hội (Lịch sử, Địa lý, Giáo dục Công dân) mỗi hợp phần gồm 40 câu TNKQ.
Tổng số toàn đề thi có 180 câu. Tổng số thời gian làm bài là 215 phút, làm gọn trong một buổi thi.
Các môn Toán và Ngữ văn và hai hợp phần khoa học tự nhiên và khoa học xã hội sẽ bao phủ chương trình cơ bản của bậc THPT. Bài thi có 20% câu hỏi dễ (mức năng lực thấp), 60% câu hỏi trung bình (mức năng lực trung bình) và 20% câu hỏi khó (mức năng lực cao).
Mỗi câu trả lời đúng được 1 điểm, sai hoặc bỏ qua không bị trừ điểm. Tổng số điểm tối thiểu là 0, tối đa là 180.
Việc thi và chấm thi được thực hiện trên máy tính trong các phòng thi chuyên dụng. Đề thi cho từng cá nhân sẽ được xáo trộn ngẫu nhiên về câu hỏi, phương án để các thí sinh không thể “nhìn bài nhau” và cũng không thể sử dụng sự hỗ trợ từ bên ngoài.
Thi và chấm thi trực tiếp trên máy tính sẽ hạn chế tối đa các hiện tượng tiêu cực so với việc giám khảo trực tiếp chấm bài thi, đảm bảo nhanh chóng, chính xác.
Việc coi thi được thực hiện bởi các cán bộ được tập huấn về nghiệp vụ có liên quan tới kỳ thi. Các phòng máy có cán bộ trực kỹ thuật hỗ trợ vận hành máy tính.
Phiếu điểm được thiết kế và sử dụng cho các mục đích làm căn cứ xác nhận trình độ tốt nghiệp THPT (cùng với điểm học tập các môn trong 3 năm) và cung cấp kết quả cho xét tuyển đại học, cao đẳng.
Phiếu điểm của bài thi sẽ cung cấp kết quả riêng rẽ của 4 hợp phần: Toán; Ngữ văn; Khoa học Tự nhiên; Khoa học Xã hội. Điểm sẽ quy đổi về điểm trên thang 0-10, với 2 số thập phân. Kết quả thi sẽ dùng lại nhiều lần trong khoảng thời gian 2 năm tính từ ngày thi.
Căn cứ vào điểm bài thi tổng hợp và điểm các môn học, thí sinh được chọn xét tốt nghiệp theo các yêu cầu được quy định trước.
Các trường đại học khi sử dụng kết quả các hợp phần điểm của bài thi quốc gia, có thể lấy điểm của một, nhiều hoặc cả 4 hợp phần để đặt điểm sàn sàng lọc; có thể nhân hệ số cho điểm các hợp phần tùy theo ngành tuyển chọn.
Các trường cũng có thể tổ chức thêm 1 bài thi đơn môn với dạng thứ trác nghiêm hoặc tự luận, câu hỏi mở, hoặc thi năng khiếu để có thêm thông tin đánh giá về thí sinh tuyển chọn vào các chương trình có những đòi hỏi đặc thù.
Việc quyết định tổ chức kỳ thi chung, hợp nhất ở Việt Nam hiện nay có thuận lợi cơ bản là công nghệ thông tin, truyền thông của nước ta đã tương đối phát triển, ngày càng có nhiều chuyên gia về công nghệ đo lường đánh giá hiện đại trong giáo dục đáp ứng tổ chức thành công các kỳ thi với qui mô lớn.
Bên cạnh đó, học sinh đã được làm quen với hình thức thi trắc nghiệm khách quan (TNKQ) đã được áp dụng cho các môn Lý, Hóa, Sinh trong kỳ thi “3 chung” giúp cho thí sinh và xã hội dễ dàng thích ứng với các loại đề thi này.
Như vậy, có thể khẳng định hoàn toàn có đầy đủ căn cứ khoa học và thực tiễn để triển khai kỳ thi quốc gia - kỳ thi hợp nhất.