Chuyên gia bàn thảo về ứng dụng tâm lý học trường học

GD&TĐ - Sáng 14/4, Học viện Quản lý giáo dục tổ chức Hội thảo khoa học quốc gia “Ứng dụng tâm lý học trường học trong bối cảnh đổi mới giáo dục”.

Ảnh có tính chất minh hoạ/internet
Ảnh có tính chất minh hoạ/internet

Hội thảo đã thu hút gần 100 nhà khoa học, nghiên cứu, giảng viên đến từ các cơ sở giáo dục khác nhau trên toàn quốc.

Học sinh bị trầm cảm hay các rối loạn về tâm thần gia tăng

"Gần đây dưới sự tác động đa chiều, nhiều mặt của Covid-19, tình trạng học sinh có những vấn đề liên quan đến sức khoẻ tâm thần gia tăng. Trong quá trình đổi mới giáo dục, vai trò của các kiến thức tâm lý học trường học cần được nhìn nhận như nền tảng khoa học căn bản cho các hoạt động giáo dục trong nhà trường để bảo đảm thực hiện thành công đổi mới giáo dục" - TS Hoàng Trung Học.

Báo cáo đề dẫn hội thảo, TS Hoàng Trung Học – Trưởng khoa Tâm lý- Giáo dục (Học viện Quản lý giáo dục) – cho hay: Ban tổ chức đã lựa chọn được 44 bài viết có giá trị khoa học, phù hợp với chủ đề của Hội thảo. Nội dung các bài viết tập trung theo 3 hướng chính:

Thứ nhất, các nghiên cứu tập trung trong công tác ứng dụng tri thức tâm lý trong hoạt động quản lý, giáo dục và xây dựng văn hóa nhà trường.

Thứ hai, các nghiên cứu theo hướng chẩn đoán, đánh giá các vấn đề tâm lý hướng nội và hướng ngoại của học sinh và các đối tượng có liên quan. Đây là các nghiên cứu tập trung vào vấn đề stress; lo âu, trầm cảm, hành vi lệch chuẩn, hành vi hung tính trong môi trường học đường; các mô hình, chiến lược đánh giá, sàng lọc, phòng ngừa, can thiệp các vấn đề tâm lý đảm bảo sức khỏe tâm thần học đường.

TS Hoàng Trung Học phát biểu tại Hội thảo
TS Hoàng Trung Học phát biểu tại Hội thảo

Thứ ba, những nghiên cứu giải quyết các vấn đề thời sự của học sinh trong thời kỳ đại địch Covid-19, gồm các nghiên cứu theo hướng đánh giá, phát hiện những bất thường tâm lý của học sinh trong thời Covid-19; chỉ rõ các yếu tố có liên quan đến Covid-19 làm ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần học đường và các chiến lược phòng ngừa, ứng phó.

“Có thể nói, đây là những nghiên cứu mới, có tính sáng tạo, có cơ sở lý luận, thực chứng thực sự khoa học chặt chẽ trong việc phát hiện, phòng ngừa và can thiệp các vấn đề tâm lý nảy sinh liên quan đến thời kỳ Covid-19” – TS Hoàng Trung Học nhấn mạnh.

PGS.TS Trần Thị Minh Hằng: Ở nước ta có tới gần 1/3 dân số mắc các loại rối loạn tâm thần
PGS.TS Trần Thị Minh Hằng: Ở nước ta có tới gần 1/3 dân số mắc các loại rối loạn tâm thần

Tại hội thảo, PGS.TS Trần Thị Minh Hằng – giảng viên cao cấp (Học viện Quản lý giáo dục) – nhìn nhận, trong học đường có nhiều vấn đề liên quan đến các chủ thể trong nhà trường. Nghiên cứu và ứng dụng tâm lý học là vấn đề cốt lõi khi thay đổi xã hội và nhà trường hiện nay.

Viện dẫn về thống kê các bệnh tâm lý, PGS.TS Trần Thị Minh Hằng – thông tin, thống kê của Viện Sức khỏe tâm thần (Bệnh viện Bạch Mai) cho thấy, ở nước ta có tới gần 1/3 dân số mắc các loại rối loạn tâm thần; trong đó, tỉ lệ mắc trầm cảm chiếm 1/4 trong số này. Nếu nói tới số ca tự vẫn có liên quan đến trầm cảm thì mỗi năm có tới khoảng 36.000 đến 40.000 ca.

“Thực tế trong tháng vừa qua, có đến 5 vụ học sinh lứa tuổi THCS và THPT tự tử với nhiều nguyên nhân; trong đó liên quan đến tâm lý; mới nhất vụ học sinh lớp 6 THCS ở Cà Mau nhảy lầu” - PGS.TS Trần Thị Minh Hằng chia sẻ, đồng thời cho rằng, một số giáo viên cũng mắc các bệnh tâm lý dẫn đến hậu quả đáng tiếc.

“Những con số này là một minh chứng cho thấy rằng trầm cảm hay các rối loạn về tâm thần xảy ra tương đối phổ biến; song, có một sự thật đáng buồn là nhiều người chưa có quan điểm đúng về trầm cảm”- PGS.TS Trần Thị Minh Hằng nói.

TS Lê Minh Công tham luận tại hội thảo
TS Lê Minh Công tham luận tại hội thảo

Phòng ngừa hậu quả

Tại hội thảo, TS Lê Minh Công – Giám đốc Trung tâm nghiên cứu và Hỗ trợ sức khoẻ tinh thân, Trường ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn (ĐH Quốc gia TP Hồ Chí Minh) – thông tin, ở lứa tuổi trẻ em và thanh thiếu niên, các vấn đề sức khoẻ tâm thần thường được chia thành hai nhóm lớn: các rối loạn hướng nội (nội hoá) và các rối loạn hướng ngoại (ngoại hoá).

Hai nhóm rối loạn này mặc dù khác nhau về khái niệm không phải lúc nào cũng độc lập với nhau và rất có kả năng đồng nhất ở một cá nhân.

Rối loạn hướng nội được biểu hiện một cách điển hình là một kiểu ức chế được mô tả như: rút lui, thu mình, trầm cảm hay lo âu. Các rối loạn nội hoá này thường đối lập với các rối loạn ngoại hoá như: gây hấn, bốc đồng cưỡng chế, không tuân thủ, kém thích ứng…

Các rối loạn nội hoá thường khu trú vào các tình trạng bệnh lý liên quan đến nhau bao gồm: rối loạn trầm cảm, các rối loạn lo âu (hoảng sợ, lo âu lan toả, ảnh hưởng cưỡng chế, ám ảnh sợ xã hội, ám ảnh sợ đặc hiệu, stress hậu sang chấn…

Các nhà khoa học thảo luận tại hội thảo
Các nhà khoa học thảo luận tại hội thảo

TS Lê Minh Công kiến nghị, các nhà thực hành tâm lý trường học cần triển khai các chương trình đã được thích nghi và nghiên cứu hiệu quả như chương trình kết nối. Điều này giúp trẻ em và thanh thiếu niên không phát triển các triệu chứng hướng nội khi đang có nguy cơ; đồng thời nâng cao năng lực học tập và cảm xúc xã hội ở trẻ, giúp cho trẻ khoẻ mạnh và hạnh phúc khi đến trường.

Tuy nhiên, chương trình phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của nhà tâm lý trường học, giáo viên phối hợp triển khai chương trình va sự kết nối thực sự của phụ huynh.

Tuy nhiên, có khá nhiều rào cản để triển khai các chương trình phòng ngừa có hiệu quả trong bối cảnh văn hoá Việt Nam, nhất là ở các vùng nông thôn hoặc ven đô.

Các chuyên gia ở Việt Nam cũng cần thực hiện các nghiên cứu can thiệp có bằng chứng với trẻ và thanh thiếu niên có rối loạn hướng nội. Các liệu pháp như: Liệu pháp nhận thức hành vi, liệu pháp gia đình hệ thống hoặc liệu pháp ngắn tập trung vào các giải pháp (SFBT) sẽ có hiệu quả với thân chủ là trẻ em, thanh thiếu niên Việt Nam. Tuy nhiên cần có các nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng được thiết kế chặt chẽ.

“Trong nhiều năm trở lại đây, Tâm lý học là ngành học khá “hot” của xã hội. Ngày nay cùng  với sự nâng  cao nhận thức của con người về vai trò quan trọng của sức khỏe tinh thần, tỷ lệ sinh viên Tâm lý học ra trường có việc làm khá cao. Theo các nhà khoa học, xu hướng phát triển của nghề tâm lý trong tương lai là các dịch vụ chăm sóc, can thiệp, điều trị sức khỏe tâm thần, tâm lý cho các cá nhân tại nhà” - PGS.TS Trần Thị Minh Hằng.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ