Chiến tranh đã lùi xa trong triệu triệu lớp ký ức của những người cựu binh nơi vùng “đất chết”A So (xã Đông Sơn, A Lưới, Thừa Thiên Huế), nhưng nỗi đau về vùng đất bị nhiễm dioxin vẫn hiển hiện trong từng thớ đất, trong từng nét mặt người dân vùng chiến địa năm xưa.
Khai hoang trên “rốn” da cam
Năm 1991, có 95 hộ dân đồng bào dân tộc Pa Cô sống quanh đèo PeKe và xã Hồng Thủy được chuyển về vùng đất này, thành lập xã Đông Sơn. Hồ Văn Tôi cũng nằm trong số những gia đình đến chinh phục vùng đất da cam ấy.
Gặp người thanh niên dám bắt tay để khai hoang vùng đất chết với đôi bàn tay trắng, mới biết nghị lực phi phường của lớp “hậu bối” tiếp nối bước cha anh đến với vùng đất dữ.
Quá giờ trưa, đến thôn Loa, hỏi đường đến nhà Hồ Văn Tôi, anh nông dân bỏ dở luống cày bên đường, nhanh nhảu: “Hỏi thằng Tôi hả, giờ này chắc nó trên rẫy keo chứ không ở nhà đâu. Anh đi lên mạn rừng kia sẽ thấy”.
Theo hướng chỉ tay người nông dân, trước mắt chúng tôi là cả một cánh rừng tràm, keo xanh mướt. Bên những rừng cây xanh bát ngát, Tôi kể về chuỗi ngày vất vả của mình:
“Mình theo gia đình lên đây, hồi đó vùng này hoang vu lắm. Đất đai thì có sẵn đó nhưng không có cây gì mọc nổi, qua năm tháng đất cứ trơ ra, chai sần lại cứng như đá.
Buổi đầu trở về bà con bắt tay vào làm ăn, vẫn chưa xác định được cây, con gì nuôi để duy trì sinh kế. Tình cờ mình xem trên tivi, thấy nhiều địa phương cũng là chiến khu cũ, người ta trồng được rừng, làm giàu từ rừng, không lẽ mình ở vùng núi lại không trồng được”.
Nghĩ là thế nhưng tiền ở đâu ra mà mua giống, trồng cây gì có phù hợp bây giờ? Với “vốn liếng” chữ nghĩa học được thời THPT, Tôi lao vào nghiên cứu, tìm đọc về các giống cây, miệt mài chọn các loại cây, con nuôi phù hợp. Năm 2004, mới 22 tuổi đầu, chàng trai bắt tay khai hoang “cánh đồng dioxin” để trồng rừng.
Những nhát cuốc đầu tiên, anh suýt ngất đi vì mùi hăng nồng nặc bốc lên từ đất. Rồi sau đó là những tháng ngày vừa khai hoang, dọn bom mìn còn sót lại sau chiến tranh. Cứ ròng rã suốt nhiều tháng liền tay vững tay cuốc khai khẩn, mặt cứ nhắm thẳng lên phía đồi mà chặt, phát, đốt.
Một buổi chiều, ngồi nghỉ bên triền đồi, phóng tầm mắt xuống chặng đường sau lưng mình đã nhọc công đi qua, anh chợt ứa nước mắt vui mừng cả một vùng đất đã dọn dẹp xong, chờ ngày ươm cây giống xuống.
Ngày anh đặt nhát cuốc đầu tiên, dân bản “chẳng tin mấy thằng Tôi làm nên được trò trống gì”. Họ bảo ai lại trồng rừng nơi chỗ này. Cả 7 thành viên trong gia đình anh ai nấy đều ra sức can ngăn, hết nhỏ nhẹ lại quay sang nạt nộ, cấm đoán, nhưng anh đều mặc.
Những tháng ngày đó dân bản Loa thường thấy chàng thanh niên Hồ Văn Tôi, dáng người mảnh khảnh hết chạy lên Phòng Nông nghiệp huyện lại chạy về Công ty giống.
Dành dụm được ít tiền mua cây giống, những ngày đầu cắm cây xuống đất, anh vừa mừng vừa lo. Nếu cây không chống chịu nổi thì công toi mấy tháng bán mặt cho đất, bán lưng cho trời.
Nhưng đất chẳng phụ lòng người. Những mầm xanh đầu tiên giữa hoang hoải núi đồi đã mọc lên, cái màu xanh le lói đã xua đi màu xám cùng mùi hắc đến ngột thở của vùng đất chết.
Năm 2005, 15 ha rừng tràm được anh trồng đã lên xanh tốt. Cuối năm này, anh vay mượn của bà con được gần 30 triệu đồng để đầu tư làm vườn ươm cây giống cho đỡ chi phí cây con trồng.
Có đồng vốn trong tay, anh không ngừng phát triển diện tích rừng. Khi Nhà nước có chủ trường trồng rừng kinh tế, anh liền đăng ký tham gia.
Thấm thoát mười mấy năm trôi qua, biết bao giọt mồ môi, nước mắt anh đổ giữa rừng hoang. 50 ha rừng keo, tràm hoa vàng của anh đã sinh trưởng tốt, được chính quyền cấp sổ đỏ. Màu xanh của nó đã thành màu xanh hy vọng.
Thấy “thằng Tôi” trồng rừng hiệu quả, bà con lục đục kéo đến xem. Anh tận tình chỉ bảo từ kỹ thuật chọn mua giống cây trồng, đến đào hố ươm cây.
Anh tâm sự: “Mình ước có thể làm được nhiều hơn cho bà con. Nhìn đâu đâu, cuộc sống bà con dân bản còn khó khăn lắm. Lớp trẻ như mình được cống hiến cho dân bản cũng là việc nên làm. Nếu được tạo điều kiện, mình sẽ giúp bà con trồng rừng kinh tế, xóa nghèo hơn nữa".
Ngoài trồng rừng, Tôi còn xây dựng mô hình chăn nuôi, giúp dân bản làm giàu |
Đỡ đần dân bản
Từ những người trồng rừng đầu tiên như anh Hồ Văn Tôi, đến nay toàn xã Đông Sơn có gần 100% hộ dân trồng rừng với hơn 500 ha rừng kinh tế. Bình quân mỗi hộ dân có từ 2 - 3 ha rừng tràm, keo.
Từ vùng đất được mệnh danh là “rốn” da cam năm xưa, trải qua mấy chục năm yên bình, với chính sách di dân, không ai ngờ rằng giờ đây màu xanh núi rừng đã trở lại.
Anh Tôi nhẩm tính: “Với mỗi hécta rừng keo, tràm, mỗi năm mình thu được từ 70 - 80 triệu đồng. Trừ chi phí, mình lãi được 40 - 50 triệu đồng”.
Dù nguồn thu chưa phải là lớn, những với một vùng đất khắc nghiệt, nhiễm độc nặng như Đông Sơn, đó là nguồn con số đáng tự hào. Có tiền trong tay, Tôi mạnh dạn đầu tư thêm hàng chục con trâu, bò, dê thả dưới tán rừng.
Anh cho biết, dự định của mình sắp tới là đầu tư thêm ao cá, để xây dựng mô hình vườn - ao - chuồng - rừng khép kín. Từ đó có thể nhân rộng mô hình kinh tế này cho bà con Đông Sơn theo học.
Tôi chia sẻ: “Mình có ước muốn lớn nhất là được cùng thanh niên trong xã, xây dựng mô hình trang trại, nhằm góp phần cải thiện môi trường nơi vùng đất bị nhiễm độc Đông Sơn”.