Càn Long Hoàng đế, húy là Ái Tân Giác La Hoằng Lịch (1711 – 1799), sinh ra khi Khang Hy còn ở ngôi, là Hoàng tử thứ tư của Ung Chính.
Khi Càn Long tại vị, một vị quan là Lang Thế Ninh khi vào cung từng thấy cảnh vua cùng các phi tần vui đùa.
Càn Long liền hỏi ông: “Khanh thấy trong các nàng ai là đẹp nhất?”. Lang Thế Ninh đỏ mặt trả lời: “Phi tần của Hoàng thượng vị nào cũng đẹp.”
Sau đó, Lang Thế Ninh phụng mệnh vua vẽ lại bức họa của 11 vị phi tần, đặt tên là “Tâm viết trì bình”.
Càn Long sau khi xem qua các bức họa 3 lần đã cho người cất vào hộp kín, ra lệnh ai dám lén xem sẽ bị lăng trì xử tử.
Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu Phú Sát Thị
Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu Phú Sát Thị là thê tử nguyên phối của Càn Long khi ông còn là Hoàng tử. Hoàng hậu là người gốc Mãn tộc. Phụ thân Phú Sát thị là tổng quản Lý Vinh Bảo, em trai ruột là Đại học sỹ Phó Hằng.
Phú Sát thị sinh vào ngày 22/2 năm Khang Hy thứ 51 (1712) âm lịch. Vào năm Ung Chính thứ năm (1727), bà chỉ hôn cho hoàng tử thứ tư Ái Tân Giác La Hoằng Lịch (Càn Long) khi mới vừa tròn 16 tuổi.
Năm bà 25 tuổi, thái tử Hoằng Lịch đăng cơ, Phú Sát thị lên ngôi hoàng hậu, hai năm sau, lễ tấn phong được cử hành chính thức.
Bức chân dung của hoàng hậu được Họa viện vẽ trong vòng một năm kể từ ngày bà được tấn phong (26 tuổi).
Bà sinh được bốn người con: Hai hoàng tử và hai công chúa. Trong số đó, sau này chỉ còn lại duy nhất một công chúa còn sống và được sắc phong.
Tháng 2 năm Càn Long thứ 13, Càn Long phụng mệnh Thái hậu dẫn theo hoàng hậu đi tuần Giang Nam. Tuy nhiên trong chuyến đi này, Hoàng hậu đột ngột lâm bệnh nặng và qua đời ở tuổi 37.
Tuệ Hiền Hoàng quý phi Cao Thị
Tuệ Hiền Hoàng quý phi Cao Thị là con gái của Đại học sỹ Cao Bân. Cha bà vốn là một “bao y” – người hầu phục vụ trong gia đình quý tộc Mãn Châu, sau này được nhập tịch vào Mãn tộc.
Cao thị nhập phủ Càn Long khi ông còn là Bảo thân vương, ban đầu được phong chứ “Sở nữ”, sau này được tấn phong làm Trắc phúc tấn (vợ lẽ).
Tháng 12 năm Càn Long thứ 2 (1737), bà được tấn phong làm Quý phi. Bức chân dung của bà cũng được vẽ trong khoảng thời gian này.
Ngày 26/1 năm Càn Long thứ mười hai (1745), bà được truy phong là “Hoàng Quý phi”, thụy hiệu “Tuệ Hiền”.
Ngày 17/10 năm Càn Long thứ 17 (1752), cùng với Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu, Tuệ Hiền Hoàng Quý phi được an táng trong Lăng Vân Linh (Đông Lăng).
Thuần Huệ Hoàng quý phi Tô thị
Thuần phi, sau này là Thuần Huệ Hoàng quý phi Tô thị, còn gọi là Tô Giai thị. Bà là con gái của Tô Triệu Nam.
Bà sinh vào ngày 21 tháng 5 năm Khang Hy thứ năm mươi ba (1713), sau này đến tuổi trưởng thành mới vào hầu hạ Càn Long.
Sau khi đăng cơ, Càn Long sắc phong bà là “Thuần tần”. Tháng 12 năm Càn Long thứ 2, Tô Giai thị được sắc phong làm “Thuần phi”. Bức họa chân dung của bà được vẽ sau khi tấn phong.
Tháng 11 năm Càn Long thứ 10, Thuần phi được tấn phong làm Quý phi. Vào tháng tư năm Càn Long thứ hai mươi lăm, bà tiếp tục được phong làm Hoàng Quý phi. Cũng trong năm đó, Thuần Huệ Hoàng Quý phi qua đời, hưởng thọ 48 tuổi.
Tô Giai thị sinh được hai hoàng tử và một công chúa. Con trai thừa tự của bà là hoàng tử Vĩnh Dung, người giỏi thi thơ, hội họa, rành thiên văn, toán học.
Con gái duy nhất của bà sau này được gả cho cháu ruột của Hiếu Hiền Thuần hoàng hậu là Thượng thư Phước Long An.
Thục Gia Hoàng Quý phi Kim thị
Gia phi – tức Thục Gia Hoàng Quý phi Kim thị. Bà là con gái của Thượng Tứ Viện Khanh Kim Tam Bảo, em gái của Lễ Bộ Thượng thư Kim Giản.
Cũng như Tuệ Hiền Hoàng quý phi Cao thị, lúc đầu gia đình bà cũng xuất thân là “bao y” thấp kém, sau này được được ban họ Kim Giai, nhập tịch vào Mãn tộc.
Khi mới vào cung, Kim thị được phong làm Quý nhân. Tháng 12 năm Càn Long thứ 2 (1737) bà được phong là “Gia tần”.
Năm Càn Long thứ tư, Kim thị hạ sinh tứ Hoàng tử Vĩnh Thành. Sau đó, vào tháng năm Càn Long thứ sáu, bà được tấn phong làm “Gia phi”. Bức họa chân dung của bà cũng được vẽ vào thời điểm tấn phong này.
Năm Càn Long thứ 11 (1746), Gia phi tiếp tục hạ sinh bát hoàng tử. Sau đó một năm, Cửu Hoàng tử lại ra đời.
Vào năm Càn Long thứ 13 (1748), bà được tấn phong làm “Gia Quý phi”. Sau đó vào năm Càn Long thứ mười bảy (1751), bà sinh hạ Thập nhất Hoàng tử.
Tới năm Càn Long thứ 20 (1755), Kim thị qua đời ở tuổi 40, được truy phong là “Thục Gia Hoàng Quý phi”.
Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu Ngụy thị
Lệnh phi – tức Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu Ngụy thị là con gái của Nội quản Ngụy Thanh Thái. Gia tộc của bà vốn xuất thân từ Hán tộc, cũng là “bao y”. Sau khi nhập tộc Mãn Châu, gia tộc Ngụy thị được đổi thành Ngụy Giai thị.
Ngụy thị sinh vào năm Ung Chính thứ 5 (1727), tới năm 1745 mới vào cung làm Quý nhân. Tháng 11 năm Càn Long thứ 10 được phong làm “Lệnh tần”.
Tháng 4 năm Càn Long thứ 14 (1749), bà được tấn phong là “Lệnh phi”. Bức chân dung của bà cũng được vẽ vào thời điểm này.
Tiếp đó vào năm Càn Long thứ 30, Ngụy thị lại được tấn phong làm “Hoàng Quý phi”.
Kể từ sau khi Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu qua đời, Càn Long không hề lập Hoàng hậu. Chính vì vậy, Hoàng Quý phi chính là người cai quản tam cung lục viện.
Bà mất vào ngày 29/1 năm Càn Long thứ 40 (1775), hưởng thọ 49 tuổi, thụy hiệu là Lệnh Ý Hoàng Quý phi.
Hoàng Quý phi Ngụy thị sinh được sáu người con. Hoàng tử Ngung Diễm (Hoàng đế Gia Khánh) là một trong số đó.
Tháng 9 năm Càn Long thứ 60, Ngung Diễm được sắc phong làm Hoàng thái tử. Tháng mười năm đó, Lệnh Ý Hoàng Quý phi Ngụy thị được truy phong là Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu.
Thư phi Diệp Hách Lạp thị
Thư phi Diệp Hách Lạp thị là người tộc Mãn Châu, con gái của Thị lang Nạp La Vĩnh Thụy.
Bà sinh vào năm Ung Chính thứ 6 (1728), tới năm Càn Long thứ mười bốn thì vào cung làm quý nhân. Tháng 11 cùng năm, bà được sắc phong làm “Thư tần”.
Tháng tư năm Càn Long thứ 14, Diệp Hách Lạp thị được tấn phong làm “Thư phi”. Bức chân dung của bà cũng được vẽ vào thời điểm này.
Năm Càn Long thứ 16, bà sinh Thập hoàng tử. Bà qua đời vào năm Càn Long thứ bốn mươi hai, hưởng thọ 50 tuổi.
Khánh Cung Hoàng Quý phi Lục thị
“Khánh tần” tức Hoàng Quý phi Lục thị, là con gái của Lục Sỹ Long.
Bà sinh vào ngày 24 tháng 6 năm Ung Chính thứ 2 (1724). Năm Càn Long thứ 5, Lục thị nhập cung, được phong làm Quý nhân.
Tháng 6 năm Càn Long thứ 16 (1740) được phong “Khánh tần”. Bức họa chân dung của bà được vẽ vào thời điểm này.
Năm Càn Long thứ 24 (1759), Lục thị được tấn phong làm “Khánh phi”. Bà được phong làm “Khánh Quý phi” vào năm Càn Long thứ ba mươi ba.
Năm Càn Long thứ 39 ( 1774 ), bà qua đời, thọ 51 tuổi, không có con cái. Bà là dưỡng mẫu của Thanh Nhân Tông Gia Khánh đế, được ông đánh giá là người mẹ “dưỡng dục chu toàn”, “hiền hậu như mẹ đẻ”.
Khi bà mất, tang lễ được tổ chức vô cùng long trọng, được truy phong làm “Khánh Cung Hoàng Quý phi”.
Dĩnh Quý phi Ba Lâm thị
Dĩnh Quý phi Ba Lâm thị sinh năm 1731, mất năm 1800. Bà là người Mông Cổ chính gốc, là con gái của Đô đốc Nạp Thân.
Lâm thị nhập cung khi Càn Long mới lên ngôi, được sắc phong là “Dĩnh tần” vào năm Càn Long thứ 16 (1751). Năm Càn Long thứ hai mươi bốn (1759), bà được tấn phong là “Dĩnh phi”.
Vào năm Gia Khánh 13 (1798), Thái thượng hoàng Càn Long ra chiếu chỉ: “Dĩnh phi tại vị lâu năm, lại quá tuổi thất tuần, nên tấn phong làm Quý phi”.
Sau này, Gia Khánh hoàng đế tôn bà là “Dĩnh Quý thái phi”, ở tại Khang Cung.
Năm Gia Khánh thứ 5, em trai của Hoàng đế Gia Khánh là Ái Tân Giác La Vĩnh Lân một mình tổ chức thọ thần cho Dĩnh Quý phi. Vì không có con cái, lại một mình đơn độc trong thâm cung đã lâu, Lâm thị rất vui.
Tuy nhiên Hoàng đế nổi giận, gọi em trai tới trách mắng vì hành vi tự tung tự tác. Chính vì điều này, mà thọ thần bảy mươi của Dĩnh Quý phi cũng trở nên nặng nề.
Hai mươi ngày sau đó, Dĩnh Quý phi qua đời, được an táng tại phi viên tâm trong Dụ Lăng.
Hân Quý phi Đới Giai thị
Hân tần – tức Hân Quý phi Đới Giai thị - là con gái của Tổng đốc Tô Đồ, người gốc Mãn Châu.
Vào năm Càn Long thứ mười tám (1754) Đái Giai thị nhập cung. Đến năm Càn Long thứ 19, bà được tấn phong làm “Hãn tần”. Bức chân dung của bà cũng được vẽ vào thời điểm này.
Vào năm Càn Long thứ hai mươi tám (1763) bà được tấn phong làm “Hãn phi”. Vào tháng 11 cùng năm này, bà qua đời. Tang lễ của bà được tổ chức theo nghi lễ dành cho Quý phi.
Đôn phi Uông thị
Đôn phi Uông thị là người Mãn Châu, con gái của Đô thống Tứ Cách. Bà sinh vào năm Càn Long thứ 11 (1746).
Ngày 18/10 năm Càn Long thứ 28 (1763), Uông thị nhập cung, được phong là “Vĩnh thường tại”. Khi đó bà mới 17 tuổi, còn Hoàng đế đã 52 tuổi.
Năm Càn Long thứ ba mươi sáu (1771), bà được tấn phong là “Vĩnh Quý nhân”, sau đó là “Vĩnh tần”.
Ba năm sau, bà được tấn phong là “Đôn phi”. Bức họa chân dung của bà cũng được vẽ vào thời điểm này.
Năm Càn Long thứ 40, Đôn phi hạ sinh Cố Luân Hòa Hiếu Công chúa – công chúa thứ mười một của Càn Long.
Tuy nhiên sau đó, vào năm Càn Long thứ 43, Đôn phi vì giết hạ nhân mà bị giáng xuống làm “tần”, ba năm sau mới khôi phục chức “phi”.
Năm Gia Khánh thứ 11, Đôn phi qua đời, hưởng thọ 61 tuổi. Cố Luân Hòa Hiếu Công chúa sau này gả cho Phò mã Phong Thân Ân Đức (con trai cả của Hòa Thân).
Thuận phi Hữu Nộ Lộc thị
Thuận phi Hữu Nộ Lộc thị, sau này bị giáng làm Thuận Quý nhân, là con gái của Tổng đốc Ái Tất Đạt
Bà sinh vào năm Càn Long thứ 14. Đến năm Càn Long thứ 31, Hữu Nỗ Lộc thị nhập cung, được phong làm Quý nhân. Khi đó bà mới 18 tuổi, kém Càn Long 38 tuổi.
Năm Càn Long thứ 33, bà được phong làm Thuận tần, bảy năm sau được tấn phong làm “Thuận phi”. Bức chân dung của bà được vẽ vào thời điểm phong phi.
Năm Càn Long thứ 53, Thuận phi bị giáng xuống làm Thuận Quý nhân. Cùng năm đó, Thuận Quý nhân qua đời, hưởng thọ 41 tuổi.