Thạch kinh Phật nghìn năm tuổi ở Cố đô Hoa Lư

GD&TĐ - Cột kinh Phật bằng đá được cho là cổ xưa nhất Việt Nam hiện diện trong chùa Nhất Trụ ở Cố đô Hoa Lư, luôn thu hút sự chú ý của nhiều người.

Chùa Nhất Trụ - nơi đặt Thạch kinh.
Chùa Nhất Trụ - nơi đặt Thạch kinh.

Cột kinh Phật hơn 1.000 năm tuổi này có hình bát giác, nặng 4,5 tấn, cao 4,16m tính từ chân đế đến chóp. Cột gồm 6 bộ phận đều được làm bằng đá vôi có tuổi địa chất khoảng 300 triệu năm.

Mang nhiều giá trị về nghệ thuật kiến trúc, văn hóa, điêu khắc và ý nghĩa lịch sử, cột kinh Phật chùa Nhất Trụ đã được công nhận là Bảo vật quốc gia.

Dấu Phật chốn danh lam

Cột kinh Lăng Nghiêm dựng năm 995.

Cột kinh Lăng Nghiêm dựng năm 995.

Trong số những di vật và kiến trúc còn sót lại trong khu vực Cố đô Hoa Lư, chỉ còn lại cột kinh Phật bằng đá ở chùa Nhất Trụ là nguyên vẹn hơn cả. Thạch kinh chùa Nhất Trụ – cây cột kinh bằng đá không chỉ là minh chứng cho một nền nghệ thuật điêu khắc sống động, mà còn là hiện thân cho một giai đoạn lịch sử cũng như dòng chảy văn hóa đương thời.

Đến chùa Nhất Trụ, không ai có thể bỏ qua cột kinh Phật độc đáo được làm bằng đá đầy bí ẩn này.

Chùa Nhất Trụ, còn được gọi là chùa Một Cột, là một trong những ngôi chùa nổi tiếng đã được xếp hạng di tích cấp quốc gia. Nằm trong quần thể khu di tích Cố đô Hoa Lư thuộc địa phận xã Trường Yên, cùng với đình Yên Thành, đền thờ công chúa và đền vua Lê, là di tích có giá trị lịch sử và kiến trúc nghệ thuật đặc sắc của kinh đô Hoa Lư xưa.

Chùa tọa lạc trên khoảng đất rộng hơn 3.000m2, quay về hướng Tây với các hạng mục kiến trúc chữ Đinh gồm Tiền đường, Thượng điện, nhà Tổ, khu vườn tháp. Chùa Một Cột nổi tiếng ở Hà Nội, tương truyền chính là tên được các vua nhà Lý đem theo từ ngôi chùa Nhất Trụ này.

Không chỉ là một linh tích nổi tiếng của Cố đô Hoa Lư, thể hiện qua câu đối “Tràng An thắng cảnh hoàng đô thủy/ Nhất Trụ danh lam Phật tích linh” – tức: Thắng cảnh Tràng An kinh đô gốc/ Danh lam Nhất Trụ dấu Phật còn.

Chùa Nhất Trụ nằm ở vị trí trung tâm thành Đông, là di tích quan trọng nhất - nơi tu hành và họp bàn việc nước của các nhà sư ở thế kỷ thứ 10 như: Pháp Thuận, Khuông Việt và Vạn Hạnh.

Cổng vào chùa được xây dựng ngay bên phải sân chùa theo kiểu 2 tầng 8 mái, mặt ngoài là đại tự khắc 3 chữ Hán “Nhất Trụ Tự”. Tòa Tiền đường 5 gian được làm kiểu tường hồi bít đốc, các bộ vì nóc kiểu kèo kẻ giá chiêng chủ yếu được bào trơn đóng bén với một số mảng chạm khắc lá lật, vân xoắn trên đầu xà hoặc chạm chữ thọ trong vòng tròn mang đậm dấu ấn nghệ thuật của thời Nguyễn.

Tòa Thượng điện 3 gian nối liền với gian giữa Tiền đường cũng có kết cấu tương tự. Đây chính là không gian cho việc bài trí tượng Phật trong chùa với các lớp tượng: Tam Thế, Di Đà Tam Tôn, Quan Âm chuẩn đề, Quan Âm tọa sơn, Thích Ca sơ sinh… Ngoài ra còn có tượng Tổ, tượng Thị giả được bày ở nhà Tổ của chùa.

Hệ thống di vật ở chùa khá phong phú nhưng nổi bật là quả chuông đồng đúc vào năm Cảnh Thịnh thứ 7 (1799) với những lời răn dạy mang đậm chất nhân văn của Phật giáo: “Làm việc thiện sẽ gặp trăm điều tốt lành… Nhà làm việc thiện thì tấm lòng luôn vui vẻ không dừng, luật nhân quả tỏ rõ”. Đặc biệt nhất trong hệ thống di vật của chùa phải kể đến là Thạch kinh, tức cột kinh Phật ở sân trước chùa.

Trải qua hơn nghìn năm, nét chữ khắc trên đá bị mờ nhiều.

Trải qua hơn nghìn năm, nét chữ khắc trên đá bị mờ nhiều.

Đỉnh cao khắc đá

Thạch kinh do vua Lê Đại Hành cho khởi dựng.

Thạch kinh do vua Lê Đại Hành cho khởi dựng.

Từ những dữ liệu trên Thạch kinh, các nhà khảo cổ nhất trí cho rằng, vua Lê Đại Hành chính là người đã cho dựng cột kinh ở chùa Nhất Trụ. Phần văn tự cũng cho thấy, cột kinh được dựng vào năm 995. Chùa Nhất Trụ cũng được vua Lê Đại Hành xây dựng vào năm 995.

Trong thuật ngữ Phật giáo, kinh trên cột đá gọi chung là Thạch kinh - khắc kinh Lăng Nghiêm có kiểu dáng tương tự những cột kinh Đinh Liễn. Từ năm 1963 đến nay, Bảo tàng tỉnh Ninh Bình cùng các nhà khảo cổ đã tìm thấy khoảng 20 cột kinh Phật nằm dưới đáy sông Hoàng Long và lòng đất Hoa Lư.

Điểm khác nhau là cột kinh chùa Nhất Trụ có kích thước lớn hơn nhiều, mặt khác có một vòng cánh sen bao quanh đế cột, trong khi những cột kinh Đinh Liễn không có hoa văn.

Cột kinh chùa Nhất Trụ có hình bát giác cao 4,16m, gồm 6 bộ phận gá lắp với nhau bởi các ngõng, bao gồm: Tảng đế vuông, đế tròn, thân bát giác, bông hoa đá tám cánh, và đỉnh hồ lô.

Tất cả các bộ phận gắn với nhau hoàn toàn không sử dụng chất kết dính, nhưng rất vững trãi dù đã trải qua ngàn năm mưa gió. Theo ghi chép của chùa Nhất Trụ, tảng đế dưới cùng có hình gần vuông góc mỗi chiều 140cm, dày 30cm; lỗ mộng tròn ở giữa tảng có đường kính 29cm, sâu 55cm. Đế tròn trên to dưới nhỏ, dày 32,5cm; đường kính phía trên 76cm, đường kính phía dưới 66cm.

Bên dưới đế có ngõng tròn đường kính 15,5cm, dài 3,5cm, ngõng lắp vừa khít vào lỗ mộng ở tảng đế vuông. Trên mặt đế tròn có lỗ mộng đường kính 34,5cm, sâu 9cm. Bao quanh đế cột có vòng cánh sen đường kính 107cm, với tổ hợp 22 cánh đơn, chiều dài mỗi cánh 15 - 17cm, rộng 13cm.

Cánh sen thon tương tự cánh sen trên một số tảng đá làm bậc đi ở trong động Am Tiên (Động và chùa Am Tiên là nơi vua Đinh nuôi nhốt hổ báo để trừng trị những kẻ phản quốc hoặc có tội nặng - PV).

Không chỉ độc đáo về kiến trúc, cột kinh chùa Nhất Trụ còn là một hiện vật độc bản có giá trị văn hóa, lịch sử to lớn. Trên tám mặt của cột kinh đều được mài nhẵn, bên trên khắc 2.500 chữ Hán về kinh Đà La Ni và một bài thần chú ca ngợi về sự bền vững của Đức phật, trí tuệ vô thông của đức Như Lai.

Cột kinh giấu vàng?

Đinh Liễn con trai vua Đinh Tiên Hoàng từng cho dựng 100 cột kinh Phật bằng đá ở Hoa Lư.

Đinh Liễn con trai vua Đinh Tiên Hoàng từng cho dựng 100 cột kinh Phật bằng đá ở Hoa Lư.

Theo các nhà nghiên cứu về Phật giáo nói riêng và nghệ thuật kiến trúc nói chung thì những cánh sen xuất hiện sớm nhất ở Việt Nam trong kiến trúc nghệ thuật cùng các hình thức trang trí cánh sen trong kiến trúc Lý - Trần đều bắt nguồn từ cột kinh Lăng Nghiêm.

Quan sát kỹ sẽ thấy thân cột bát giác có số đo qua tâm hai mặt đối diện là 65cm. Hai đầu cột đều có ngõng cắm vào đế và thớt. Thớt bát giác dày 13cm, có số đo qua tâm hai mặt đối diện là 61cm (ở phía dưới) và 65cm (ở phía trên), như vậy cột có dáng trên to dưới nhỏ.

Hai đầu cột đều có ngõng cắm vào đế và thớt: Ngõng dưới dài 5cm, đường kính 16cm; ngõng trên dài 6m, đường kính 18cm. Thớt bát giác có số đo qua tâm 2 mặt đối diện là 69cm, dày 13 cm, mặt trên phẳng, mặt dưới có lỗ mộng sâu 7cm, đường kính 31cm để ngậm vào ngõng trên của thân.

Đấu cao 26cm có đường gờ miệng uốn lượn tạo nên 8 đỉnh nhọn, phía dưới được thu nhỏ tạo hình tròn, phía trên đấu có lỗ mộng tròn sâu 7cm để gắn chóp hồ lô. Chóp trên cùng đã bị mất, nhưng căn cứ vào chóp trên những cột kinh Đinh Liễn so sánh tỷ lệ với thân, các nhà khoa học đoán định chóp có hình chiếc hồ lô thóp bụng, cổ dài, miệng tù, cao 80cm, đường kính 30cm.

Trên tám mặt của thân cột khắc đầy chữ Hán, nhưng trải qua thời gian hơn 1.000 năm, nửa dưới và ba mặt nửa trên cột đã bị mờ hoàn toàn. Năm mặt nửa trên còn lại cũng không đọc được nguyên vẹn. Nếu còn nguyên vẹn, ước khoảng 2.500 chữ, giờ đây số chữ có thể khổ tâm đọc được hoặc nhận dạng là 1.200 chữ.

Theo sư thầy trụ trì chùa Nhất Trụ, thì nội dung văn tự trên Thạch kinh có 3 phần: Kệ, kinh, lạc khoản, nội dung văn tự là kinh Thủ Lăng Nghiêm. Phần lạc khoản của cột kinh khắc các chữ “đệ tử Thăng Bình hoàng đế”.

Phần văn tự còn nhận biết được viết: Thuyền Bát Nhã, trước vượt sóng biển, đã mang về bản hương (kinh). Đại Thánh Minh Hoàng đế, tổ họ Lê, tự nhận mệnh trời, cả định non sông đến nay là 16 năm trời… cúi đầu tỏa hào quang ra từ đỉnh đầu của vị Phật lớn.

Cùng với đó, sách “Đại Việt sử ký toàn thư” chép: Mùa xuân, tháng 2 (năm 981), vua tự làm tướng đi chặn giặc… sai quân sĩ trá hàng, dụ được Nhân Bảo, đem chém… Vua đem các tướng đánh, quân của Khâm Tộ thua to, chết đến quá nửa, bắt được tướng giặc đem về Hoa Lư. Từ đó trong nước rất yên. Bầy tôi dâng tôn hiệu là Minh Càn ứng vận thần Vũ Thăng Bình Chí Nhân Quảng Hiếu Hoàng đế.

Hiện nay vẫn tồn tại lời đồn cho rằng, tại đài sen này chính là nơi giấu vàng của quan quân phương Bắc khi xâm lược và vơ vét của cải từ phương Nam. Minh chứng rõ nhất là phần rời của phía trên cột kinh là nơi để cho vàng vào bên trong. Tuy nhiên, lời đồn vẫn chỉ là những câu chuyện mang tính giai thoại đầy huyễn hoặc.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ