Thách thức nhìn từ thực tế
Có thể thấy không như học sinh người Kinh, trước khi đến trường đa số học sinh người dân tộc thiểu số chưa thể sử dụng được tiếng Việt. Một số học sinh tới lớp mầm non, mẫu giáo được sự chăm sóc và có vốn kiến thức ban đầu về tiếng Việt, sử dụng được những mẫu hội thoại đơn giản, những kỹ năng cơ bản như nghe, nói… nhưng vì nhiều lý do đã không theo các em bước vào lớp 1.
Trong sinh hoạt gia đình, cộng đồng, người dân các em học sinh chỉ sử dụng tiếng mẹ đẻ nên khi bước ra thế giới bên ngoài, vào môi trường giáo dục phổ thông, tiếng Việt trở thành ngôn ngữ thứ hai của các em.
Trong quá trình lên lớp, việc giao tiếp thông thường với thầy cô giáo của các em không chỉ khó khăn mà thậm chí là không thể. Việc nghe giảng những kiến thức về các môn học khác nhau bằng tiếng Việt lại càng khó khăn hơn đối với các em.
Đến trường, đến lớp là các em bước đến môi trường sinh hoạt hoàn toàn xa lạ, tâm lý rụt rè, e sợ luôn thường trực đã làm giảm tốc độ tiếp thu và hứng thú học tập. Vì vậy, khó khăn của các em cũng chính là thách thức, trách nhiệm đặt lên vai những người thầy trong quá trình giảng dạy.
Là một trường tiểu học với 90% học sinh thuộc vùng dân tộc thiểu số. Thầy Phùng Thế Tùng – Hiệu trưởng trường PTDTBT Tiểu học Tả Gia Khâu cũng chỉ ra nhiều thách thức trong vấn đề nói và viết tiếng Việt của học sinh dân tộc khi bước vào bậc tiểu học.
Theo thầy Tùng, trước khi vào học lớp 1 các em đã được học qua mẫu giáo, nhưng do quy định, thay đổi về nội dung, chương trình học thì 2 năm trở lại đây các cháu học mẫu giáo chỉ được làm quen và nhận biết sơ bộ về chữ cái và số không được học cơ bản như trước đây là nhận biết, tập tô, ghi nhớ chữ cái, số.
Trước đây khi vào lớp 1 các cháu đã cơ bản nhận biết hết chữ cái, số, tô chữ cái, số đúng quy trình. Còn việc nói và giao tiếp của trẻ vùng cao thì vẫn mang một bản chất là nhút nhát rụt rè, ngại giao tiếp bằng tiếng Việt trong môi trường đông người.
Nhiều giáo viên đang giảng dạy ở vùng có học sinh dân tộc cũng cho biết, thói quen trong sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ đã và đang ảnh hưởng tới học sinh khi rời trường, lớp. Dần dà các em không thể sử dụng tiếng Việt, quên ngay những kiến thức về tiếng Việt đã học trên lớp, từ đó khiến các em thụ động, thiếu linh hoạt khi ở môi trường giao tiếp lớn hơn.
Không để ngôn ngữ trở thành hạn chế
Việc yếu tiếng Việt của học sinh dân tộc đã và đang dẫn đến nhiều hạn chế trong quá trình học sinh tiếp nhận kiến thức và sinh hoạt tại trường cũng như ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động dạy học của các thầy cô giáo và của nhà trường đặc biệt là với những thầy cô giáo dạy lớp 1.
Vì bước vào lớp 1 các thầy cô lại mất một thời gian khá dài để cho các em làm quen và học lại một cách bài bản mới có thể thực hiện được chương trình học chính khóa và từ hạn chế đó dẫn tới việc tiếp thu kiến thức của các em chậm hơn so với những trẻ ở vùng thuận lợi. việc hạn chế về nghe, nói, đọc viết tiếng Việt của trẻ dẫn tới việc giao tiếp, nghe lệnh và tham gia vào các hoạt động chung của nhà trường gặp rất nhiều khó khăn nhất là các hoạt động tập thể và các hoạt động giáo dục kỹ năng sống thường ngày.
Mặt khác, đối với đội ngũ giáo viên làm công tác giảng dạy trực tiếp cũng sẽ gặp khó khăn khi truyền tải kiến thức. Giáo viên nói học sinh không nghe được hết tiếng Việt không hiểu được nội dung vấn đề yêu cầu để thực hiện.
Học sinh muốn nói, trình bày ý kiến quan điểm của mình với thầy cô nhưng còn hạn chế về nói tiếng Việt và diễn đạt nội dung nên các em không tự tin để trình bày. Yêu cầu của chương trình học về nội dung và kiến thức nhiều phân môn nên dẫn tới rất nhiều khó khăn trong chuyền tải kiến thức trọng tâm.
Mất nhiều thời gian cho mỗi nội dung kiến thức cần truyền đạt để các cháu nhận biết và tiếp thu. Quá trình dạy học bắt buộc mỗi giáo viên phải tự học cho mình thêm ngôn ngữ thứ 2 là tiếng dân tộc của các em để song hành nói giải thích bằng 2 thứ tiếng cho các em hiểu và nhanh tiếp thu kiến thức. Thời gian, khối lượng công việc nhiều nên việc học tập thêm tiếng dân tộc của giáo viên cũng gặp phải những hạn chế.
Tìm giải pháp để tăng cường tiếng Việt tối ưu tại các trường học có học sinh vùng dân tộc thiểu số giúp chất lượng giáo dục đạt kết quả tốt hơn luôn là mong muốn của nhà trường và giáo viên ở vùng cao, vùng biên giới nơi có nhiều học sinh dân tộc.
Nhiều thầy cô đã chỉ ra, giải pháp tối ưu để nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường đối với học sinh dân tộc thiểu số vào lớp 1 đó chính là: Ngay từ cấp mầm non cần phải có sự điều chỉnh về nội dung chương trình học như những năm trước để hỗ trợ cho học sinh có được những kỹ năng cơ bản trước khi vào lớp 1 tại những vùng miền có 100% học sinh là dân tộc thiểu số.
Có thời gian chuẩn bị cho mỗi năm học mới đó là thực hiện chương trình tăng cường tiếng Việt theo như chương trình 36 buổi tại mỗi trường tiểu học vùng cao có tỷ lệ 100% là học sinh dân tộc thiểu số.
Mặt khác, việc phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường trong việc tăng cường chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ mầm non và học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số cũng cần được coi trọng. Ví như những năm học trước đây có chương trình dự án hỗ trợ cho trẻ khó khăn ở vùng cao thì mỗi trường, điểm trường được hỗ trợ kinh phí để chi trả cho một người là người dân tộc tại địa phương làm việc và hỗ trợ cho giáo viên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ dạy học.
Và việc làm đó đã đem lại hiệu quả cao hơn cho các thầy cô giáo trong việc giảng dạy và truyền đạt kiến thức cho các em là dân tộc thiểu số. Đến nay dự án đó không còn và sự thay đổi về nội dung chương trình của cấp học Mầm non dẫn tới việc dạy học còn gặp phải một số khó khăn nhất định do vậy các nhà trường Mầm non, Tiểu học tại các cơ sở giáo dục vùng dân tộc thiểu số phải có sự phối kết hợp chặt chẽ trong công tác giáo dục cho con em dân tộc thiểu số.
Về phía gia đình, cần tăng cường việc giao tiếp và nói với con bằng tiếng Việt nhiều hơn ở tại nhà. Cho các con được tham gia học tập tại các lớp mầm non, mẫu giáo ngay khi các con đến tuổi đi học tại các cơ sở giáo dục. Quan tâm đến con em mình, phối hợp chặt chẽ với giáo viên, nhà trường để có những điều chỉnh, hỗ trợ tăng cường tiếng Việt cho trẻ ngay từ khi học Mầm non, mẫu giáo. Đối với các thầy cô giáo dạy học tại các trường vùng cao đặc biệt khó khăn cần tự mình học hỏi để biết thêm nghe, nói tiếng dân tộc vùng mình làm việc.
Giải quyết và đáp ứng được các nhu cầu, tháo gỡ khó khăn cho việc tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thì mới có thế từng bước nâng cao chất lượng giáo dục tại các trường vùng cao nơi có đông đảo học sinh là con em dân tộc, dân tộc thiểu số.