Đây là kết quả của một đánh giá có hệ thống và phân tích tổng hợp 19 nghiên cứu đối với hơn 1 triệu người từ 8 quốc gia.
Kết quả thú vị
Trà có chứa các hợp chất chống oxy hóa, chống viêm và chống ung thư khác nhau. Do những đặc tính này, từ lâu việc thường xuyên uống trà được xem là có lợi cho sức khỏe. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa uống trà và nguy cơ mắc bệnh T2D chưa được nêu rõ ràng. Bên cạnh đó, cho đến nay, các nghiên cứu và phân tích tổng hợp đưa ra những phát hiện không nhất quán.
Để giải quyết sự không chắc chắn này, các nhà điều tra đã tiến hành một nghiên cứu và phân tích tổng hợp dựa trên phản ứng theo liều lượng, để xác định rõ hơn mối quan hệ giữa việc tiêu thụ trà và nguy cơ mắc bệnh T2D trong tương lai.
Đầu tiên, họ nghiên cứu 5.199 người trưởng thành (gồm 2.583 nam, 2.616 nữ) với độ tuổi trung bình là 42 và không có tiền sử mắc bệnh T2D. Thông tin những người này được lấy từ Cuộc khảo sát Sức khỏe và Dinh dưỡng Trung Quốc (CHNS). Họ được tuyển chọn vào năm 1997 và được theo dõi cho đến năm 2009.
Ngay từ đầu, những người tham gia điền vào một bảng câu hỏi về tần suất dùng thức ăn và đồ uống. Họ cũng cung cấp thông tin về các yếu tố lối sống như tập thể dục thường xuyên, hút thuốc và uống rượu. Nhìn chung, 2.379 (46%) người tham gia cho biết họ đã uống trà. Vào cuối nghiên cứu, 522 (10%) người tham gia phát triển bệnh T2D.
Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng những người uống trà có nguy cơ phát triển bệnh T2D tương tự so với những người không uống rượu. Họ cũng đã điều chỉnh các yếu tố được cho là có liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc bệnh T2D, như tuổi tác, giới tính và mức độ hoạt động thể chất.
Ngoài ra, kết quả không thay đổi đáng kể khi phân tích theo độ tuổi và giới tính, hoặc loại trừ người tham gia phát triển bệnh tiểu đường trong 3 năm theo dõi đầu tiên.
Trong bước tiếp theo, các nhà khoa học xem xét có hệ thống tất cả các nghiên cứu điều tra việc uống trà và nguy cơ mắc bệnh T2D ở người lớn (từ 18 tuổi trở lên) cho đến tháng 9/2021. Tổng cộng, 19 nghiên cứu bao gồm 1.076.311 người tham gia từ 8 quốc gia (Trung Quốc, Mỹ, Phần Lan, Nhật Bản, Anh, Singapore, Hà Lan và Pháp) đã được đưa vào phân tích.
Họ đã khám phá tác động tiềm ẩn đối với nguy cơ mắc bệnh T2D của các loại trà khác nhau (trà xanh, trà ô long và trà đen), tần suất uống trà (ít hơn 1 tách/ngày, 1 - 3 tách/ngày và 4 tách trở lên mỗi ngày), giới tính (nam và nữ) và địa điểm nghiên cứu (châu Âu và châu Mỹ, hoặc châu Á).
Giảm 17% nguy cơ mắc bệnh
Ảnh minh họa/INT. |
Nghiên cứu về tác dụng của việc uống trà đối với bệnh tiểu đường trên đây được trình bày tại Hội nghị thường niên của Hiệp hội châu Âu về Nghiên cứu Bệnh tiểu đường ở Stockholm, Thụy Điển vào tháng 9. Tác giả chính Xiaying Li từ Đại học Khoa học và Công nghệ Vũ Hán, Trung Quốc cho biết, nghiên cứu cho ra kết quả rất thú vị vì mọi người có thể làm điều gì đó đơn giản như uống 4 tách trà mỗi ngày để giảm nguy cơ phát triển bệnh T2D.
Phân tích tổng hợp đã tìm thấy mối liên hệ tuyến tính giữa việc uống trà và nguy cơ mắc bệnh T2D. Với mỗi tách trà được tiêu thụ mỗi ngày làm giảm nguy cơ phát triển bệnh T2D khoảng 1%. Khi so sánh với những người trưởng thành không uống trà, những người uống 1 - 3 tách mỗi ngày giảm 4% nguy cơ mắc bệnh T2D.
Ấn tượng hơn, những người tiêu thụ ít nhất 4 tách trà mỗi ngày giảm được 17% nguy cơ mắc bệnh. Sự liên quan trên vẫn được duy trì không kể loại trà, giới tính người uống trà hay nơi họ sống. Điều này cho thấy có thể lượng trà được tiêu thụ, chứ không phải bất kỳ yếu tố nào khác, mới đóng vai trò quan trọng.
Theo nhà nghiên cứu Li, mặc dù cần phải thực hiện nhiều nghiên cứu hơn để xác định chính xác liều lượng và cơ chế đằng sau những quan sát này, nhưng phát hiện được nêu cho thấy uống trà có lợi trong việc giảm nguy cơ mắc bệnh tiểu đường loại 2, nhưng chỉ ở liều lượng cao (ít nhất 4 tách mỗi ngày).
Bà cho biết thêm, có thể các thành phần cụ thể trong trà, chẳng hạn như polyphenol làm giảm lượng đường trong máu, đã tạo nên kết quả trên. Tuy nhiên, cần một lượng đủ các hợp chất hoạt tính sinh học này để trà phát huy hiệu quả.
Trà ô long là một loại trà truyền thống của Trung Quốc được làm từ cùng một loại cây được sử dụng để làm trà xanh và trà đen. Sự khác biệt là cách chế biến trà. Trà xanh không được oxy hóa nhiều, trà đen được oxy hóa cho đến khi chuyển sang màu đen, và trà ô long bị oxy hóa một phần.
Mặc dù có những phát hiện quan trọng trên, các tác giả lưu ý rằng nghiên cứu này chỉ mang tính quan sát.
Ngoài ra, nhóm nghiên cứu chỉ ra một số lưu ý. Trong đó bao gồm việc họ dựa trên những đánh giá chủ quan về số lượng trà được tiêu thụ và không thể loại trừ khả năng có những sai lệch còn sót lại, do các yếu tố sinh lý và lối sống khác của người tham gia khảo sát, có thể đã ảnh hưởng đến kết quả.