Phát triển nhanh gắn với phát triển bền vững

Phát triển nhanh gắn với phát triển bền vững

(GD&TĐ)-Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 2011-2020 của Đảng ta khẳng định: “Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược”. Đây là vấn đề quan trọng, xuyên suốt và nhất quán trong chỉ đạo thực hiện đường lối kinh tế của Đảng ta từ nay đến năm 2020.

Phát triển nhanh (PTN) gắn với phát triển bền vững (PTBV) vừa bao hàm cả phát triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều sâu; đồng thời, thể hiện tốc độ và chất lượng của mô hình tăng trưởng kinh tế nước ta.

Phát biểu tại các diễn đàn khu vực và quốc tế, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đều nhấn mạnh đến tầm quan trọng của phát triển bền vững - Ảnh Chinhphu.vn
Phát biểu tại các diễn đàn khu vực và quốc tế, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đều nhấn mạnh đến tầm quan trọng của phát triển bền vững - Ảnh Chinhphu.vn

Phát triển nhanh (PTN) gắn với phát triển bền vững (PTBV) vừa bao hàm cả phát triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều sâu; đồng thời, thể hiện tốc độ và chất lượng của mô hình tăng trưởng kinh tế nước ta. Về phạm vi, mô hình kinh tế này thể hiện sự gắn kết hài hoà giữa PTN và PTBV trên nhiều lĩnh vực rộng lớn, đan xen nhau cả về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội và an ninh, quốc phòng. Do đó, PTN gắn với PTBV là phát triển kinh tế ổn định gắn với việc đảm bảo an sinh xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái. Hay nói cách khác, PTBV là sự phát triển mà thế hệ hôm nay không làm phương hại đến thế hệ ngày mai. Như vậy, nội hàm của phát triển theo nghĩa rộng, bao quát nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.

Việt Nam vừa bước vào nhóm các quốc gia đang phát triển với mức thu nhập trung bình thấp. Vì thế, quan điểm PTN gắn với PTBV có một ý nghĩa to lớn trong định hướng phát triển và hội nhập quốc tế hiện nay. Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay được Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung và phát triển 2011) nêu rõ: “Các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc”2. Trong bức tranh chung đó, có nhiều thực tiễn sinh động, nhiều bài học kinh nghiệm, cả thành công và thất bại trong lựa chọn mô hình tăng trưởng của các quốc gia trên thế giới.

Thực tiễn cho thấy, số đông các nước vẫn dừng ở mức những nước đang phát triển với mức thu nhập thấp; tình trạng nghèo đói, bất bình đẳng xã hội, năng suất thấp, ô nhiễm môi trường, nguồn tài nguyên quốc gia khai thác cạn kiệt; chất lượng tăng trưởng, chất lượng sống của người dân thấp, lạc hậu. Một số quốc gia do điều kiện lịch sử, có điểm xuất phát cao và đã trải qua thời kỳ phát triển TBCN; tuy nhiên, những mâu thuẫn và bất ổn xã hội vẫn thường xuyên diễn ra.

Bên cạnh đó, nhiều quốc gia vẫn đang loay hoay lựa chọn mô hình phát triển; chỉ có số ít nước phát triển đạt được một số tiêu chí cơ bản về chất lượng cuộc sống, chất lượng tăng trưởng, nhưng cũng phải trả giá không nhỏ trong quá trình phát triển. Bởi vậy, PTN gắn với PTBV sẽ là mô hình mà nhiều quốc gia lựa chọn trong bối cảnh thế giới ngày nay, nhất là những nước đang phát triển.

Đối với Việt Nam, PTN gắn với PTBV có nhiều ý nghĩa sâu sắc. Thứ nhất, nước ta có điểm xuất phát thấp, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới vẫn rất lớn, vì thế đòi hỏi bức thiết là phải rút ngắn khoảng cách, nên phải tăng trưởng nhanh. Thứ hai, về mô hình chế độ xã hội, với 8 đặc trưng của xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng; trong đó, đặc trưng bao trùm là “dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”3 đòi hỏi trong từng chặng đường phát triển phải gắn kết chặt chẽ giữa PTN với PTBV. Thứ ba, những kinh nghiệm của các nước trong quá trình phát triển đòi hỏi Việt Nam phải biết tận dụng lợi thế của thời đại mà lựa chọn cho mình con đường đi đúng đắn.

Trong Chiến lược phát triển KT-XH 2011-2020, yêu cầu xuyên suốt chính là PTN gắn với PTBV. Bài học kinh nghiệm thứ hai trong Chiến lược phát triển KT-XH 2001-2010 chỉ rõ: “Đặc biệt coi trọng chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa tốc độ và chất lượng tăng trưởng”4. Thực tế này khẳng định, Việt Nam sẽ thực hiện và có đủ điều kiện để đảm bảo PTN gắn với PTBV trong giai đoạn mới. Việc xác định mô hình tăng trưởng theo hướng này không chỉ thể hiện ý chí quyết tâm của cả dân tộc, mà còn là cơ sở khoa học, đảm bảo để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. PTN gắn với PTBV đòi hỏi phải phát triển bền vững về kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh kinh tế.

Sau hơn 25 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được “thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử”; bước vào giai đoạn phát triển mới đòi hỏi phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng; coi trọng năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu và phải chú trọng phát triển kinh tế theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức. Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với phát triển văn hoá, thực hiện an sinh xã hội và bảo vệ tài nguyên, môi trường... Đây vừa là nội dung, vừa là con đường để đảm bảo nền kinh tế nước ta PTN và bền vững trong thập niên thứ hai của thế kỷ XXI. Vì vậy, PTN gắn với PTBV là mô hình tăng trưởng xuyên suốt trong thời kỳ quá độ lên CNXH với nhiều cấp độ khác nhau; giai đoạn phát triển trước là tiền đề của giai đoạn phát triển sau, tạo thành một chỉnh thể thống nhất có tính kế thừa, sự nhất quán, có cơ sở khoa học và thực tiễn.

Về yếu tố thời đại, Việt Nam hoàn toàn có thể thực hiện được mô hình này khi biết tận dụng những lợi thế của nước đi sau. Cách mạng khoa học-công nghệ đã tạo ra những điều kiện để các nước đi sau nhanh chóng đi ngay vào hiện đại, tiếp cận những văn minh, tiến bộ của nhân loại, lựa chọn những thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, phù hợp với tiềm năng của mỗi quốc gia để thúc đẩy tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế, lựa chọn những công nghệ thân thiện với môi trường.

Bên cạnh đó, quá trình toàn cầu hoá và phát triển kinh tế tri thức không chỉ gắn kết mỗi quốc gia tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, mà còn làm cho nền kinh tế mỗi nước trở thành những mắt khâu bổ trợ cho nhau, tạo thành nền kinh tế thế giới thống nhất. Đó là cơ sở khách quan mang tính thời đại, đảm bảo cho Việt Nam PTN gắn với PTBV trong chặng đường tới.

Về yếu tố nội sinh, Việt Nam hoàn toàn có thể thực hiện PTN gắn với PTBV. Trước hết, mục tiêu phấn đấu của Đảng Cộng sản Việt Nam là lãnh đạo đất nước xây dựng thành công một xã hội “dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Thứ hai, trong hơn 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới và 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Việt Nam liên tục đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, tạo cơ sở để tiếp tục PTN gắn với PTBV. Thứ ba, tiềm năng và lợi thế của đất nước cũng như những thành quả đạt được trên nhiều lĩnh vực đã tạo đà thực hiện mục tiêu này cho những chặng đường tiếp theo.

Trong những năm thực hiện Chiến lược phát triển KT-XH 1991-2000 và 2001-2010, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Giai đoạn 1991-2000 bình quân tăng trưởng kinh tế đạt khoảng 7%/năm; giai đoạn 2001-2010 bình quân tăng trưởng kinh tế đạt 7,26%/năm, nước ta ở vào nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao trên thế giới. Đến năm 2010, tổng lực kinh tế Việt Nam đã đạt 101,6 tỷ USD, bình quân GDP theo đầu người đạt 1.168 USD; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực; tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong cơ cấu GDP tăng từ 36,7% năm 2000 lên 41,1% năm 2010; tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp giảm còn khoảng 21,6% và tỷ trọng dịch vụ giữ ở mức 38,3%; tỷ lệ lao động nông nghiệp giảm từ 65,1% năm 2000 còn 48,2% năm 2010. Môi trường pháp lý đã được quan tâm tốt hơn, tạo điều kiện cho sản xuất, kinh doanh thông thoáng hơn: từ năm 2001 đến tháng 7-2009, Nhà nước đã ban hành 133 luật, 337 nghị quyết, 46 pháp lệnh, 1.141 nghị định và hàng chục nghìn các văn bản quy phạm pháp luật khác; quan hệ sản xuất ngày càng phù hợp hơn, nền kinh tế đa sở hữu, nhiều thành phần kinh tế đan xen có bước phát triển mạnh. Khu vực kinh tế tư nhân, tập thể và các hộ gia đình tạo ra 45% GDP; môi trường sống được quan tâm và từng bước được nâng lên... Đến nay, Việt Nam đã hoàn thành 7/9 mục tiêu Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc đề ra đến năm 2015.

Tuy đạt được nhiều thành tựu, nhưng so với yêu cầu PTN gắn với PTBV vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, yếu kém: chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, chậm được cải thiện, các cân đối vĩ mô chưa thật sự vững chắc. Công tác quy hoạch, kế hoạch và việc huy động, sử dụng các nguồn lực còn hạn chế, kém hiệu quả. Tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu, chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên, công nghệ thấp, tiêu hao vật chất cao và sử dụng nhiều vốn. Năng suất lao động và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế thấp và chậm được cải thiện; tiêu hao năng lượng lớn: để tạo ra 1 USD GDP, Việt Nam phải tiêu tốn một lượng điện năng gấp 2,1 lần của Hàn Quốc, 3,12 lần của Xin-ga-po, khoảng 1,37 lần của Thái Lan; kết cấu hạ tầng phát triển chậm, chất lượng thấp, thiếu đồng bộ;… Nền tảng để Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa được hình thành đầy đủ, vẫn tiềm ẩn nhiều yếu tố mất ổn định, thiếu bền vững; thể chế kinh tế thị trường chưa theo kịp yêu cầu phát triển; sức sản xuất chưa được giải phóng triệt để, môi trường kinh doanh chưa thật sự bình đẳng, thông thoáng.

Trong lúc đó, hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập; hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước còn thấp, việc hình thành các loại thị trường còn chậm và chưa đồng bộ; các lĩnh vực văn hoá, xã hội có một số mặt yếu kém, chậm được khắc phục (nhất là về giáo dục-đào tạo và y tế); đạo đức và lối sống trong một bộ phận xã hội xuống cấp; chênh lệch thu nhập giữa các nhóm dân cư còn lớn (2001-2002 là 8,14 lần, đến 2008 là 8,9 lần)5. Môi trường tiếp tục bị xuống cấp, nhưng chúng ta chưa có các giải pháp đồng bộ khắc phục triệt để; ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm nặng nề; tài nguyên đất đai, rừng chưa được quản lý, sử dụng có hiệu quả. Hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước còn có mặt bất cập, chậm được cải thiện...

Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém ảnh hưởng tới PTN gắn với PTBV của nước ta có cả chủ quan và khách quan. Về khách quan, do thiên tai, lũ lụt, biến đổi khí hậu làm cho hạ tầng kinh tế, đời sống nhân dân ở những vùng bị tác động của thời tiết xấu đã khó khăn, càng khó khăn hơn; xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, nhiều vấn đề xã hội đặt ra cần sớm được giải quyết, như: xoá đói, giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội, lao động, việc làm... Cùng với đó là những vấn đề mới nảy sinh chưa có tiền lệ trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; đặc biệt là sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch…

Về chủ quan, đó là tư duy phát triển KT-XH chậm được đổi mới, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển của đất nước; tồn tại quá lâu mô hình tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng, bệnh thành tích còn nặng; phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong điều kiện Đảng cầm quyền chậm đổi mới; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên nhiều mặt còn hạn chế, nhất là những khâu đột phá, then chốt, những vấn đề xã hội còn bức xúc; sức mạnh toàn dân tộc chưa được phát huy tốt nhất...

Thực tiễn trên cho thấy, nước ta hội tụ đủ các yếu tố để PTN gắn với PTBV trong giai đoạn mới; trong đó, phải PTN để rút ngắn trình độ phát triển giữa nước ta với các nước trên thế giới. Nhưng, nếu chỉ chú ý PTN mà không quan tâm đến vấn đề an sinh xã hội, môi trường sinh thái thì không đạt được mục tiêu “dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để đảm bảo PTN gắn với PTBV, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong chặng đường từ nay đến năm 2020, cần thực hiện tốt một số vấn đề sau:

Một là, phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước, kiên quyết bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, đảm bảo giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, là đối tác và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, tạo môi trường hoà bình và điều kiện thuận lợi cho phát triển đất nước.

Hai là, tiếp tục giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, nhất là các cân đối lớn của nền kinh tế, đảm bảo an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an toàn và hiệu quả trong hoạt động của nền tài chính quốc gia.

Ba là, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên trong và bên ngoài bảo đảm cho tốc độ tăng trưởng cao; chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Bốn là, thực hiện tốt việc phát triển các lĩnh vực văn hoá-xã hội hài hoà với phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển.

Năm là, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hành dân chủ rộng rãi, nhất là dân chủ trực tiếp; hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo nền tảng để xây dựng một xã hội đồng thuận, cởi mở.

Sáu là, thực hiện nghiêm túc chủ trương tăng trưởng kinh tế gắn với bảo vệ môi trường, đảm bảo khả năng chủ động đối phó với biến đổi khí hậu trong các giai đoạn sau của nền kinh tế.

PGS, TS. PHẠM VĂN LINH
Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương(TCTG)

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ