Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và sư phạm thời kỳ 2021 - 2030 (Quy hoạch), tầm nhìn đến 2050 đưa ra mục tiêu đến năm 2030 các cơ sở đại học tư thục và tư thục không vì lợi nhuận chiếm khoảng 30% tổng quy mô đào tạo toàn quốc.
Đến nay, cả nước có 67 trường đại học tư thục, chiếm 27,6% tổng số trường đại học trên cả nước. So với mục tiêu 30% như Quy hoạch đề ra, việc phấn đấu thêm khoảng 2,4% trong 5 năm tới không quá khó khăn về mặt số lượng. Tuy vậy, để có thể phát triển hài hòa cả hai mô hình đại học tư thục và đại học tư thục không vì lợi nhuận trong mục tiêu 30% lại là thử thách lớn, khi hiện nay số trường không vì lợi nhuận còn quá ít ỏi.
Mô hình đại học không vì lợi nhuận được thực hiện ở nhiều nước trên thế giới, nhất là các nước có nền giáo dục tiên tiến. Tại Việt Nam, khái niệm đại học không vì lợi nhuận bắt đầu muộn hơn và đi vào thực tế cũng khó khăn hơn.
Được xác lập trong Luật Giáo dục đại học 2012, sau đó cụ thể hóa trong Nghị định 141 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục đại học năm 2012 và Điều lệ trường đại học năm 2014, rồi Luật Giáo dục đại học 2018..., nhưng đến nay, số trường đại học không vì lợi nhuận của nước ta còn quá khiêm tốn. Hiện chúng ta chỉ có vài trường không vì lợi nhuận như VinUni, Trường Đại học Quản lý và Công nghệ TPHCM, Trường Đại học Fulbright Việt Nam và sắp tới có Trường Đại học Tâm Anh.
Theo TS Vũ Ngọc Hoàng - Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam, trường không vì lợi nhuận là loại hình trường có những ưu điểm so với trường công và tư thục có phân chia lợi nhuận.
So với trường tư đơn thuần, mô hình này không bị chi phối nhiều do cơ chế thị trường bởi không bị “sức ép” về yêu cầu phân chia lợi nhuận, đồng thời có khả năng huy động nguồn tài chính trong và ngoài nước, từ các cá nhân và tổ chức quốc tế. So với các trường công lập thì trường không vì lợi nhuận có ưu thế về cơ chế tự chủ và sáng tạo, đây là nhân tố quan trọng nhất để các trường đại học có thể nhanh chóng trưởng thành.
Có nhiều ưu điểm nhưng dư địa cho mô hình đại học không vì lợi nhuận ở Việt Nam chưa thực sự mở vì nhiều nguyên nhân, trong đó rõ nhất là thể chế, hành lang pháp lý nước ta chưa có những chính sách khuyến khích rõ rệt, mạnh mẽ để thu hút mạnh thường quân đầu tư vào đại học không vì lợi nhuận.
Hiện những trường không vì lợi nhuận đã thành lập và đi vào hoạt động được nhờ chủ đầu tư có tiềm lực mạnh, quỹ đất và vốn. Những chủ đầu tư khác có vốn nhưng lại khó có đất “sạch” để xây trường, vì việc tự giải tỏa đền bù đất cực kỳ khó khăn. Cơ chế miễn phí thuê đất cũng vướng nhiều rào cản.
Như Trường Đại học Fulbright Việt Nam, dù đã làm hợp đồng thuê đất từ đầu năm 2016 với giá 0 đồng/m2 với Ban Quản lý Khu công nghệ cao TPHCM nhưng do vướng quy định nên ròng rã 8 năm chưa thể xây dựng. Mãi đến cuối năm 2024, với sự thúc đẩy và hỗ trợ mạnh mẽ của Chính phủ, UBND TPHCM và một số bộ, ban ngành liên quan, trường mới được giải quyết để cấp giấy phép xây dựng giai đoạn 1.
Đến ngày 20/2/2025, HĐND TPHCM mới thông qua việc miễn tiền thuê đất cho dự án của trường. Không chỉ khó khăn về đất, các ưu đãi về thuế nêu trong Luật Giáo dục đại học hay các nghị định hướng dẫn cũng chưa rõ ràng, trong khi ở các nước chính sách về ưu đãi thuế cho mô hình không vì lợi nhuận khá tường minh.
Không phải ngẫu nhiên trong danh sách các trường thuộc đẳng cấp cao nhất của thế giới và ở nước Mỹ, nước Anh, mô hình trường không vì lợi nhuận chiếm tỷ lệ cao nhất với đa số tuyệt đối.
Trường không vì lợi nhuận không chỉ góp phần đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục mà còn là giải pháp quan trọng để xây dựng các trường có đẳng cấp cao, thúc đẩy nâng cao chất lượng giáo dục đại học, tạo thương hiệu quốc gia, vì thế cần được đẩy mạnh phát triển.
Muốn vậy, song song với việc thực hiện tốt quy hoạch, cần sớm quan tâm xây dựng hành lang pháp lý, cơ chế giám sát phù hợp với mô hình đại học không vì lợi nhuận, để giáo dục đại học Việt Nam sớm có mặt trong những top xếp hạng cao nhất thế giới.