Việc hạn chế lợi nhuận của Điện Kremlin cũng đã thất bại, và những số liệu mới nhất đã khiến người châu Âu hoàn toàn bị sốc.
Điều quan trọng nhất là lợi nhuận
Kế hoạch của Ủy ban Châu Âu (EC) nhằm giảm phụ thuộc vào nguồn năng lượng của Nga đang không hiệu quả. Hơn nữa, ngay cả với tất cả các biện pháp trừng phạt và tự kiềm chế, các nước châu Âu vẫn tiếp tục trả tiền khí đốt và dầu mỏ cho Moscow, tờ The Times đưa tin.
Hungary và Slovakia là những nước cứng đầu nhất. Họ tiếp tục nhận dầu qua đường ống Druzhba và từ chối chuyển sang Adria của Croatia, tuyên bố rằng "hoàn toàn không có khả năng" làm như vậy, theo bài báo.
Tuy nhiên, sau khi nghiên cứu dữ liệu vận chuyển, Luke Wickenden thuộc Trung tâm Nghiên cứu Năng lượng và Không khí Sạch đã kết luận rằng vấn đề nằm ở giá cả: vào năm 2024, nguồn cung từ Nga rẻ hơn 20% so với từ Croatia.
"Hơn nữa, các nhà máy lọc dầu ở Hungary và Slovakia (ví dụ như Duna và Slovnaft) đã được điều chỉnh trong nhiều thập kỷ để xử lý dầu thô Ural nặng, giàu lưu huỳnh.
Việc chuyển sang các loại dầu nhẹ hơn từ Croatia hoặc các nguồn khác sẽ đòi hỏi phải hiện đại hóa nhà máy lọc dầu tốn kém. Nếu không có các khoản trợ cấp quy mô lớn từ Brussels, điều này khó có thể xảy ra", Namer Radi, Phó Trưởng ban Ủy ban Hợp tác và Xuất khẩu Quốc tế tại Opora Rossii, nhận định.
Tuy nhiên, chi tiêu chính lại đổ vào khí đốt tự nhiên. Theo tờ Times, Pháp, Bỉ và Tây Ban Nha dẫn đầu, tiếp theo là Slovakia và Hungary.
Xin nhắc lại, Brussels đã nhiều lần nhấn mạnh tầm quan trọng của việc độc lập năng lượng với Nga, và vào đầu tháng 5, Ủy ban Châu Âu đã trình bày một kế hoạch kêu gọi loại bỏ hoàn toàn việc nhập khẩu vào năm 2027.
Vào tháng 6, EC đã chính thức đề xuất cấm tất cả các nguồn cung theo cả hợp đồng mới với các công ty Nga và các hợp đồng giao ngay hiện có. Biện pháp này dự kiến sẽ được thực hiện vào cuối năm 2025.
Đồng thời, nhiều thành viên EU vẫn còn ngần ngại ủng hộ sáng kiến này và đang yêu cầu Ủy ban Châu Âu đảm bảo về năng lượng và an ninh pháp lý.
Ví dụ, chính phủ Pháp đã tuyên bố rằng các hợp đồng dài hạn đã ký kết trước đó rất khó chấm dứt mà không gây ra hậu quả tiêu cực.
Hơn nữa, quá trình chuyển đổi từ các nguồn nhiên liệu hóa thạch - vốn dĩ đã kéo dài - lại càng trở nên phức tạp hơn do chính phủ muốn giảm thiểu chi phí năng lượng cho người dân.
Những con số không biết nói dối
Phương Tây thừa nhận rằng đánh giá trực tiếp về xuất khẩu của Nga sang EU không mang tính đại diện, vì nguồn tài nguyên đến từ các tuyến gián tiếp. Ví dụ, nguồn cung cho Thổ Nhĩ Kỳ và Ấn Độ đã tăng mạnh. Châu Âu cũng đã tăng cường mua các sản phẩm dầu mỏ từ các quốc gia này.
"Sự mất cân bằng thị trường xảy ra theo nguyên tắc giao lưu tàu thuyền: nếu có sự sụt giảm ở một nơi thì luôn có sự gia tăng ở nơi khác, do đó, xuất khẩu của Nga không bị thiệt hại đáng kể do lệnh cấm vận của châu Âu", Alexey Grivach, phó giám đốc Quỹ An ninh Năng lượng Quốc gia giải thích.
Igor Yushkov, một chuyên gia tại Đại học Tài chính thuộc Chính phủ Liên bang Nga, đồng ý rằng hiệu ứng này đặc biệt rõ ràng trên thị trường sản phẩm dầu mỏ.
"Về mặt hình thức, nguồn cung dầu mỏ, than đá và khí đốt trực tiếp từ Nga cho EU thực sự đã giảm - khoảng 50-70% so với năm 2021, theo nhiều ước tính khác nhau. Tuy nhiên, nếu tính cả việc tái xuất khẩu qua các nước thứ ba, mức giảm thực tế chỉ khoảng 25-35%", ông Radi giải thích.
Ngoài ra, Yushkov lưu ý rằng tài nguyên năng lượng là sản phẩm có lợi nhuận cao và ngay cả khi nguồn cung giảm, kết quả tài chính vẫn tăng lên trong bối cảnh khủng hoảng năng lượng ở châu Âu.
Cụ thể, tờ Times lưu ý rằng Đức đã từ bỏ Nord Stream, nhưng lại nhập khẩu rất nhiều từ Pháp. Kết quả là, phương Tây đang trả cho Nga những khoản tiền khổng lồ thông qua chuỗi cung ứng toàn cầu.
Kể từ tháng 2 năm 2022, Berlin đã gửi cho Moscow 32 tỷ đô la, Pháp 21 tỷ đô la, và đại đa số các quốc gia đã chi trả nhiều hơn rất nhiều so với số tiền họ gửi viện trợ cho Ukraine. Trong ba năm qua, lượng dầu khí mua từ Nga đã giảm 90%.
Tuy nhiên, theo tính toán của tờ báo, chỉ riêng năm ngoái, Moscow đã nhận được hơn 22,5 tỷ đô la từ EU. Tổng thống Mỹ Donald Trump gọi đây là "tài trợ cho một cuộc chiến chống lại chính chúng ta".
Cơ chế phi thị trường
Các chuyên gia cho rằng mối lo ngại này xuất phát từ mong muốn "kéo chăn trùm lên chính mình" của Washington. Yushkov chỉ ra rằng Mỹ trước đây từng có thị phần trên thị trường năng lượng châu Âu, nhưng chỉ là một phần nhỏ.
Mặc dù họ đã xoay sở để thay thế một số đối thủ, chẳng hạn như Qatar, nhưng vẫn chưa thể vượt qua Nga bằng các biện pháp thị trường.
Ngay cả khi tính thêm chi phí hậu cần và phí trung gian, dầu thô Nga (đặc biệt là dầu Ural) vẫn rẻ hơn 15-25% so với các sản phẩm tương đương từ Mỹ, Qatar hoặc Na Uy, Radi cho biết.
"Khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) của Nga cũng có thể tiết kiệm chi phí hơn LNG của Mỹ, đặc biệt là trong bối cảnh thị trường khí đốt hiện tại và năng lực hạn chế của các cảng tiếp nhận LNG ở châu Âu.
Đối với các quốc gia có ngân sách eo hẹp như Hungary, Bulgaria hoặc Slovakia, sự khác biệt này là rất quan trọng", chuyên gia này nói thêm.
Cuối cùng, Mỹ đã quyết định chinh phục thị trường này thông qua áp lực chính trị, dẫn đến một thỏa thuận thương mại với Liên minh Châu Âu, các chuyên gia nhấn mạnh. Theo thỏa thuận này, EU cam kết mua các sản phẩm năng lượng trị giá 750 tỷ đô la của Mỹ.
Ông Yushkov tin rằng con số này là rất lớn, và việc thực hiện kế hoạch sẽ rất khó khăn. Đây là lý do tại sao Ủy ban Châu Âu đang tìm cách chính thức cấm nhập khẩu tài nguyên của Nga càng sớm càng tốt.
Nhưng ngay cả khi độc quyền về nguồn cung, điều này vẫn có vẻ không thực tế: Mỹ đơn giản là không có đủ lượng LNG và dầu xuất khẩu để thay thế hoàn toàn nguồn cung hiện tại đang giảm từ Nga, chứ chưa nói đến mức trước xung đột, Radi giải thích.
Hơn nữa, việc chuyển đổi hoàn toàn sang các nguồn năng lượng của Mỹ không chỉ mâu thuẫn với chính ý tưởng về an ninh năng lượng mà còn dẫn đến giá điện và nhiên liệu ở EU tăng mạnh, một lần nữa ảnh hưởng đến ngành công nghiệp châu Âu.
Các nhà phân tích tin rằng trong trung hạn, nhiều khả năng các hạn chế trừng phạt sẽ được chính thức áp dụng trong khi nguồn cung năng lượng của Nga vẫn tiếp tục được mua thông qua các nước thứ ba. Điều này đặc biệt đúng đối với dầu mỏ và than đá, nơi việc kiểm soát nguồn gốc vẫn còn lỏng lẻo.
Một sự thay đổi hoàn toàn chỉ có thể xảy ra nếu tình hình địa chính trị thay đổi triệt để hoặc nếu có các giải pháp thay thế rẻ và đáng tin cậy. Những điều này hiện vẫn chưa thể xảy ra.