Theo các chuyên gia giáo dục đại học, Nghị quyết 71-NQ/TW (Nghị quyết 71) của Bộ Chính trị đã định hướng tách bạch quyền tự chủ khỏi áp lực "tự lo" tài chính của các cơ sở giáo dục đại học.
Điều này đang được kỳ vọng sẽ "cởi trói" cho những sức mạnh nội tại của hệ thống, đặc biệt là ở các khối ngành giáo dục đại học đặc thù. Đây được xem là bước đi quan trọng nhằm thúc đẩy nền giáo dục đại học phát triển cân bằng và thực chất hơn.
Tự chủ không đồng nghĩa với tự lo tài chính
Trong nhiều năm qua, việc đồng nhất khái niệm “tự chủ” với “tự chủ tài chính” đã vô hình trung tạo ra một cuộc đua không cân sức giữa các trường đại học. Trong cuộc đua ấy, những khối ngành có chi phí đầu tư lớn, khả năng thương mại hóa thấp như khoa học cơ bản và sức khỏe thường bị đặt vào thế yếu.

Thạc sĩ Phạm Thái Sơn – Giám đốc Trung tâm Tuyển sinh và Truyền thông Trường Đại học Công Thương TPHCM.
ThS Phạm Thái Sơn, Giám đốc Trung tâm Tuyển sinh và Truyền thông, Trường Đại học Công Thương TPHCM, nhận định: Các ngành khoa học cơ bản như Toán học, Vật lí, Hóa học, Sinh học... thực sự khó khăn ở mô hình này. Đây là những ngành khó thu hút số đông sinh viên, ra trường chưa chắc có công việc ổn định. Trong khi đó, kinh phí đầu tư cho phòng thí nghiệm, cho nghiên cứu lại rất lớn và thời gian thu hồi vốn kéo dài.
" Giá trị của khoa học cơ bản mang tính gián tiếp, dài hạn, không tạo ra sản phẩm có thể chuyển giao ngay, nhưng lại là nền tảng cốt lõi cho mọi ngành công nghệ, y dược, kỹ thuật. Hệ quả tất yếu là nhiều trường đại học trong bối cảnh tự chủ tài chính buộc phải e dè, cắt giảm hoặc không dám đầu tư mạnh tay vào các ngành này. Điều đó dẫn đến sự phát triển lệch lạc, nơi các ngành có khả năng thương mại hóa lên ngôi, còn khoa học cơ bản dần bị thu hẹp và mai một."- Th.S Sơn nói.
Theo ông Sơn, Nghị quyết 71 ra đời, với định hướng tách biệt quyền tự chủ khỏi áp lực tài chính, được kỳ vọng sẽ mở ra cơ hội để các trường đại học tái cấu trúc chiến lược phát triển, đầu tư đúng mức vào các ngành học mang tính nền tảng, từ đó khơi thông sức sáng tạo và nâng cao chất lượng giáo dục đại học một cách toàn diện.
ThS Phạm Thái Sơn ví Khoa học cơ bản giống như phần rễ của một cái cây. "Rễ không mang lại quả ngọt ngay, nhưng nếu không nuôi dưỡng, cái cây công nghệ, kỹ thuật, y học ứng dụng sẽ sớm cằn cỗi. Nghị quyết 71 chính là quyết định ‘tưới nước’ cho bộ rễ, để cả hệ sinh thái tri thức được phát triển cân bằng".
Cùng quan điểm trên, PGS.TS Đỗ Văn Dũng - nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TPHCM, cho rằng chính sách mới trong Nghị quyết 71 là một sự thay đổi đột phá, đặc biệt phù hợp với các trường khối ngành Khoa học sức khỏe.
Đặc thù của khối ngành này là chi phí đào tạo cực kỳ tốn kém (thiết bị thí nghiệm, phòng lab, thực hành lâm sàng), trong khi nguồn thu lại hạn chế vì ít có cơ hội hợp tác với doanh nghiệp như khối kinh tế - công nghệ.
Sự phụ thuộc vào ngân sách nhà nước khiến các trường này thiếu đi sự linh hoạt cần thiết trong việc tuyển dụng giảng viên giỏi, mở ngành học mới hay đầu tư cho những nghiên cứu chuyên sâu.
Điểm then chốt của Nghị quyết 71 chính là “cởi trói” cho các trường khỏi áp lực này. Các trường giờ đây có thể được phân bổ ngân sách dựa trên sứ mạng, chất lượng và hiệu quả hoạt động, thay vì phải tự cân đối thu chi.

PGS.TS Đỗ Văn Dũng - nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TPHCM.
PGS.TS Đỗ Văn Dũng đánh giá cao sự thay đổi từ Nghị quyết 71, vì nó sẽ giải phóng tiềm năng nghiên cứu và đào tạo chất lượng cao.
Ví dụ, nghị quyết đặt mục tiêu đến năm 2030, tỷ lệ sinh viên các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật và công nghệ đạt ít nhất 35%, với ít nhất 6.000 nghiên cứu sinh. Điều này giúp các trường khối ngành Y dược tăng cường đào tạo tiến sĩ, tích hợp nghiên cứu lâm sàng với đổi mới sáng tạo như phát triển vaccine, dược phẩm mà không còn quá lo lắng về kinh phí.
Chính sách mới cũng sẽ thúc đẩy sự phát triển cân bằng. Khối ngành Khoa học sức khỏe vốn mang tính công ích, phục vụ cộng đồng, nên việc không bị phụ thuộc vào tài chính sẽ giảm bớt sự bất bình đẳng giữa các trường, giúp đào tạo nhân lực y tế cho cả những vùng sâu, vùng xa.
Tương tự, khối ngành Khoa học cơ bản – nền tảng cho các ngành chiến lược – sẽ được hỗ trợ để phát triển, giúp Việt Nam hiện thực hóa khát vọng tiếp cận top 100 thế giới ở một số lĩnh vực.
Tuy nhiên, PGS.TS Đỗ Văn Dũng cũng lưu ý một thách thức tiềm ẩn: tự chủ phải đi kèm với cơ chế kiểm soát chất lượng nghiêm ngặt từ các bộ chủ quản, đặc biệt là với khối ngành sức khỏe, nơi liên quan trực tiếp đến an toàn và tính mạng con người.

Bài toán về cơ chế giám sát và bộ tiêu chí
Trao quyền tự chủ toàn diện là một bước đi cần thiết, nhưng để quyền tự chủ không bị lạm dụng hay đi chệch hướng, nó phải được ràng buộc chặt chẽ với trách nhiệm giải trình.
PGS.TS Đỗ Văn Dũng và ThS Phạm Thái Sơn đều nhấn mạnh rằng, đây là nguyên tắc cốt lõi để đảm bảo sự thành công của chính sách từ Nghị quyết 71.
PGS.TS Đỗ Văn Dũng phân tích sâu hơn về cơ chế quản trị theo tinh thần mới của Nghị quyết 71, trong đó có một thay đổi đáng chú ý là “Không tổ chức hội đồng trường trong các cơ sở giáo dục công lập (trừ các trường công lập có thỏa thuận quốc tế)” và thay vào đó là thực hiện mô hình “bí thư cấp ủy kiêm người đứng đầu cơ sở giáo dục”.
Theo ông Dũng, điều này cần được nhìn nhận như một cơ chế trách nhiệm giải trình mới, tập trung quyền lực và trách nhiệm vào người đứng đầu để tăng tính thống nhất, quyết đoán và giảm các tầng lớp quản lý chồng chéo.
Khi đó, vai trò giám sát sẽ được chuyển mạnh mẽ hơn sang các cơ quan nhà nước và thực hiện thông qua các chỉ số đo lường hiệu quả (KPIs) về chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và hiệu quả sử dụng ngân sách. Để cơ chế này vận hành tốt, cần xây dựng hệ thống báo cáo định kỳ, kiểm toán độc lập và cơ chế xử lý vi phạm nghiêm minh.
Trách nhiệm giải trình không chỉ là với cơ quan chủ quản. Trách nhiệm giải trình cần được văn bản hóa, không chỉ báo cáo tài chính, mà còn cả chất lượng đào tạo, hiệu quả nghiên cứu, tác động xã hội. Người đứng đầu trường phải chịu trách nhiệm trước xã hội, người học, và người sử dụng lao động. Đây là một sự chuyển dịch quan trọng, đặt các trường đại học vào vị thế phải thực sự phục vụ và chứng minh giá trị của mình với toàn xã hội.

Ông Đỗ Văn Dũng nhận định, để hiện thực hóa trách nhiệm giải trình, cần xây dựng một bộ tiêu chí rõ ràng là “tuyệt đối cần thiết”. Nếu không có một khung tham chiếu chung, tự chủ rất có thể dẫn đến tình trạng “mạnh ai nấy chạy”, gây ra sự bất bình đẳng hoặc lạm dụng quyền lực. Bộ tiêu chí này, nên bao gồm những nội dung cụ thể như:
Tiêu chí về chất lượng học thuật: Đánh giá năng lực đào tạo, chuẩn đầu ra, tỷ lệ sinh viên có việc làm sau tốt nghiệp, số lượng công bố khoa học quốc tế
Tiêu chí về minh bạch quản trị: Công khai và minh bạch trong việc sử dụng ngân sách, tuyển dụng nhân sự, và công bố các thông tin hoạt động của nhà trường.
Tiêu chí về đóng góp xã hội: Đo lường tác động của các hoạt động nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và phục vụ cộng đồng của nhà trường.
“Khi có một khung tiêu chí chung và minh bạch, các trường sẽ có một lộ trình rõ ràng để thực thi quyền tự chủ của mình một cách có trách nhiệm, đảm bảo sự phát triển nằm trong một trật tự công bằng và bền vững”, ông Dũng nhấn mạnh.