Hồn làng hoa gạo tháng Ba

GD&TĐ - Những ngày giáp hạt xưa, cũng là những ngày hoa gạo nhuộm đỏ cả một vùng quê nghèo heo hút.

Với nhiều người, mùa hoa gạo gợi nhiều nỗi niềm thương nhớ.
Với nhiều người, mùa hoa gạo gợi nhiều nỗi niềm thương nhớ.

Cánh hoa rơi xuống, bông gạo nở bung bay đi như gởi niềm mong ước của người dân quê tới cõi thiên đình.

Hoa gạo tháng Ba

Hoa gạo có lẽ là một đặc trưng dễ nhận dạng nhất của làng quê Việt. Xưa, hiếm có làng nào vắng bóng cây gạo, nó thành “bộ tam” trong câu thành ngữ liêu trai: “Thần cây đa, ma cây gạo, cáo cây đề”, để rồi hồn vía ấy cứ nhi nhiên trở thành hồn cốt làng quê.

Tháng Ba trên khắp các làng quê Việt Nam, hoa gạo lại một mùa bung nở đỏ thắm. Từ vùng cực Bắc xa xăm, điểm xuyết trong bảng màu xanh đen của núi rừng trùng điệp là màu đỏ hoa gạo. Nó giống những đốm lửa nhỏ sưởi ấm giữa vùng trời mù sương mà cái lạnh chưa kịp tan đi để nhường chỗ cho cái nóng trở về.

Nhưng có lẽ, hoa gạo chỉ thực sự trở thành niềm nhung nhớ pha gợi nỗi buồn ở các làng Việt vùng Đồng bằng sông Hồng. Những Hà Nam Ninh thuở trước, những Vĩnh Phú, Kinh Bắc thời tách nhập, hay vùng Hải Hưng thời chưa có biến động công nghiệp… thì hoa gạo đã là một mùa kỷ niệm, của những đôi trai gái yêu nhau, của những đứa trẻ ngóng bông hoa rụng, của những người nông dân lấm lem bùn đất.

Mấy chục năm trước, khi hiện đại hoá vẫn còn là khái niệm xa vời thì chao ôi, mùa hoa gạo tựa như một bức tranh quê hiền hoà, thuần phác. Những đứa trẻ luôn mang trong mình ý niệm “cây gạo có ma” nên bông hoa mới đỏ như thế.

Có vùng quê còn truyền tụng câu chuyện về “ma tháng Ba”, rằng cứ đến mùa hoa gạo nở thì có tiếng võng cọt kẹt và tiếng ru con vào ban đêm phát ra từ cây gạo phía đầu làng.

Nhưng dù có ma hay không, cây gạo luôn là điểm hẹn của trẻ làng. Mỗi buổi trưa khi người lớn nghỉ ngơi, là lúc tụi trẻ rủ nhau đến gốc cây gạo. Đứa thì dùng một thứ gì đó cố ném cho bông hoa rơi xuống, có đứa ăn được cả cánh hoa tươi, đứa lại xoay tít bông hoa như chong chóng.

Đám thanh niên thì lại thường tìm ở cây những mắt gạo cưa về làm mắt sáo diều. Chẳng hiểu vì sao, mắt sáo làm từ mắt thân cây gạo lại thường kêu vang và trong hơn các loại gỗ khác.

Để rồi, có những cánh diều “mắc cạn” trên ngọn cây gạo cao vút, không ai dám trèo gỡ xuống nên suốt đêm ngày, tiếng sáo diều vi vu theo tiếng gió vào làng – như tiếng nhạc, như ủi an những người quê sớm vượt qua mùa giáp hạt.

Tiếng là cây gạo mà không sinh ra gạo, nhưng cây gạo mang trong mình sứ mệnh bung nở màu hoa đỏ rực như máu. Để rồi quả gạo - như một loại bông bung bay trong gió, gởi về trời những ước vọng ấm no của người dân quê.

Và từ ấy, những tán gạo đâm chồi xoè rộng vạt lá che nắng hạ chói chang – trở thành điểm nghỉ mát cho những bước chân đang vội vã việc đồng áng chốn quê mùa.

Cây gạo gù nổi tiếng ở tỉnh Thái Bình.

Cây gạo gù nổi tiếng ở tỉnh Thái Bình.

Huyền tích cây hoa gạo

Ở vùng Bắc Hà (Lào Cai), cây gạo lại là hiện thân của một công chúa nhỏ - là con gái của Chúa Bầu Vũ Văn Mật. Vào thời ấy, Quốc công Vũ Văn Mật được sai trấn giữ phên dậu cùng nhà Lê chống quân Mạc.

Chúa Bầu có một công chúa xinh xắn nhưng hiếu động, một lần theo mẹ ra suối, chẳng may bị đuối nước. Chúa Bầu thương xót vô cùng mới táng thi hài cô ở ven khúc sông.

Sau đó, một cây gạo ven mộ mọc lên nhanh khác thường và nở hoa rực rỡ vào tháng Ba. Dân bản còn thấy từ trong sương mù, một kiệu hoa rực rỡ phấp phới bay về phía cây gạo.

Không biết từ bao giờ, mùa hoa gạo trở thành mùa của những nỗi nhớ. Bất kỳ ai, chỉ cần lạc vào một làng quê hoang vắng, hoặc lạc đến một triền đê vắng bóng người, thấy mùa hoa gạo nở sẽ thấy những xốn xang khó tả thành lời. Hoa gạo đẹp, nhưng cũng là nỗi buồn khó gọi thành tên.

Chẳng ai biết cây hoa gạo có từ bao giờ, sử Việt không hề có dòng nào nhắc nhớ về nguồn gốc. Sử Trung Quốc cũng chỉ có vài dòng, rằng vua Nam Việt là Triệu Đà đã tặng một cây cho vua nhà Hán vào thế kỷ 2 TCN.

Ở đất nước này, hoa gạo phổ biến tại Quảng Đông và được gọi là mộc miên hay hùng thụ. Như vậy có thể khẳng định, cây gạo ở Việt Nam đã có trước thời điểm mà Triệu Đà biếu vua Hán, có nghĩa cho đến nay đã trên 23 thế kỷ.

Ngần ấy thời gian “ăn ở” với người Việt, cây gạo cũng để lại nhiều truyền kỳ, mà nếu tinh ý chúng ta sẽ thấy nó mang trong mình cả những sứ mệnh của trời.

Chẳng hạn, thời thuộc Đường, khi trồng cây gạo một vị sư có đọc câu kệ: “Đại sơn đầu rồng ngước/Đuôi dài náu Chu Minh/Thập bát tử dấy nghiệp/Gốc gạo hiện long hình/Thỏ gà trong tháng chuột/Ắt thấy mặt trời lên” – dự đoán sự ra đời và lên ngôi của Lý Công Uẩn.

Đó là sử liệu của chính trị, xem ra có xa rời với những bôn ba thường dân. Nhưng huyền tích về cây gạo lại rất gần với dân chúng, đặc biệt vùng Hà Nam Ninh xưa - rằng có cô gái phải tạm xa người chồng sắp cưới vì lên thiên đình hỏi việc mưa nắng. Trước khi đi, chàng trai buộc chiếc khăn đỏ vào tay người yêu để dễ nhận biết khi trở về.

Thời gian sau, khi hay tin chàng không trở lại vì Ngọc Hoàng giữ lại làm Thần Mưa, cô gái ngày ngày trèo lên cây nêu trông ngóng rồi xin Ngọc Hoàng biến cô thành cây hoa có rễ bám sâu, thân thẳng, ngọn cao để có thể nhìn thấy người yêu, dải vải đỏ biến thành bông hoa để chàng ta nhận ra nàng.

Ngọc Hoàng đồng ý, và khi đã được thỏa nguyện, cô gái gieo mình từ cây nêu xuống đất. Nhìn thấy những bông hoa đỏ, nước mắt Thần Mưa lã chã rơi. Từ ấy, dân gian gọi đó là hoa gạo - loài hoa đỏ rực như máu của tình yêu đợi chờ.

Còn ở một số vùng Hải Phòng, Quảng Ninh cây hoa gạo là hiện thân của công chúa nhà Trần có tên Quỳnh Trân. Vào năm Quý Mùi (1283), Quỳnh Trân xin vua Trần Nhân Tông cho xuất gia và nàng chọn đất Nghi Dương, phủ Kinh Môn làm nơi lập am. Hiện cây gạo trong đền Mõ xã Ngũ Phúc (Kiến Thụy, Hải Phòng) được cho là do chính tay nàng trồng.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ