Ứng dụng công nghệ thông minh
Năm học 2022-2023, Trường THCS Cù Chính Lan (TP Thanh Hóa) có tổng số 10 lớp, với khoảng 400 học sinh (HS). Năm học này, nhà trường tiếp tục triển khai Chương trình Giáo dục phổ thông (GDPT) 2018 đối với 2 khối lớp 6, 7.
“Với môn tích hợp, chủ đề chuyên sâu vào phân môn nào sẽ do giáo viên của phân môn đó phụ trách. Hiện nay, nhà trường có đủ giáo viên để triển khai giảng dạy môn tích hợp”, thầy Minh Anh nói.
Thầy Dương Minh Anh - Hiệu trưởng Trường THCS Cù Chính Lan cho biết, với yêu cầu của Chương trình mới, nhà trường cũng có nhiều thuận lợi khi triển khai giảng dạy. Trong đó, có các môn tích hợp như Khoa học tự nhiên, Lịch sử và Địa lý.
Đặc biệt, Trường THCS Cù Chính Lan đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông minh khi giảng dạy môn tích hợp.
Theo thầy Minh Anh, hiện có khoảng 80% các phòng học của nhà trường đã được trang bị công nghệ dạy học tương tác thông minh U-Pointer 3 kết hợp ti vi màn hình cường lực. Với môn Khoa học tự nhiên, giáo viên còn kết hợp phần mềm trực quan như I-Pro5, MozaBook và thí nghiệm ảo 3D,... mang lại sự sinh động, lôi cuốn cho giờ học.
Bên cạnh những thuận lợi, thầy Minh Anh cho rằng, với yêu cầu của Chương trình GDPT 2018, giáo viên giảng dạy môn tích hợp phải không ngừng tự học để nâng cao trình độ. Bởi, với môn tích hợp giáo viên không chỉ dạy tốt ở phân môn được đào tạo mà còn phải tự học để đáp ứng yêu cầu ở các phân môn khác.
“Dù có nhiều phân môn trong một môn song chủ đề được tách bạch rõ ràng nên chỉ cần giáo viên phân công công việc hợp lý. Với nhà trường, ngay từ đầu năm học, các tổ nhóm chuyên môn cũng thường xuyên duy trì sinh hoạt để sắp xếp công việc phù hợp theo kế hoạch chung của nhà trường”, thầy Minh Anh chia sẻ.
Giờ dạy môn Khoa học tự nhiên của cô giáo Nguyễn Thị Mai - Trường THCS Cù Chính Lan, (TP Thanh Hóa). |
Nhờ tình thần tự học, chia sẻ kinh nghiệm với đồng nghiệp, cô Nguyễn Thị Mai - giảng dạy môn Khoa học tự nhiên (Trường THCS Cù Chính Lan) từng bước khắc phục khó khăn, yêu cầu của Chương trình mới.
“Hầu hết các trường đều gặp khó khăn về nhân lực, bởi không phải giáo viên nào cũng có đủ khả năng dạy một lúc cả 3 phân môn. Thật may mắn với Trường THCS Cù Chính Lan, đó là hầu hết giáo viên giảng dạy môn Khoa học tự nhiên đều có thế mạnh ở ít nhất 2 phân môn.
Với sự hỗ trợ, chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm giữa các đồng nghiệp cùng với tinh thần tự học, tự nghiên cứu, chúng tôi có thể tự tin đảm trách môn học”, cô Mai nói.
Theo cô Mai, việc ứng dụng công nghệ dạy học thông minh đã mang lại hiệu quả rõ rệt. HS được chủ động tìm tòi và chắt lọc kiến thức, rèn luyện được nhiều kỹ năng quan trọng, như: Kỹ năng quan sát, phân tích, làm việc nhóm, đặc biệt là kỹ năng trình bày vấn đề theo cách hiểu của mình.
Phương pháp phù hợp
Đánh giá về nội dung của Chương trình mới ở môn Khoa học tự nhiên, thầy Trương Công Giáo, Trường THCS Yên Thọ (Như Thanh, Thanh Hóa) cho rằng, Chương trình mới hướng tới sự phát triển năng lực và phẩm chất của HS.
Đặc biệt, nội dung trong sách giáo khoa cũng gần gũi, thực tế thay vì kiến thức hàn lâm, HS cũng được thực hành nhiều hơn thay vì “học vẹt”.
Theo thầy Giáo, với môn Khoa học tự nhiên các chủ đề Lý - Hóa - Sinh được tách bạch. Tuy nhiên, việc ghi chép của HS hiện cũng theo từng phân môn để tránh nhầm lẫn, nhất là với HS lớp 6.
“Chương trình mới hướng tới năng lực của HS nhiều hơn nên cũng đòi hỏi giáo viên phải chuẩn bị bài giảng một cách công phu và phong phú. Đặc biệt, việc cho các em được thực hành nhiều kết hợp làm việc nhóm sẽ giúp HS dễ dàng tiếp thu kiến thức”, thầy Giáo chia sẻ.
Thầy Trương Công Giáo - Trường THCS Yên Thọ (Như Thanh) trong giờ dạy phân môn Hóa (Khoa học tự nhiên) tại lớp 6D. |
Cũng theo thầy Giáo, trong quá trình giảng dạy, việc gần gũi, không tạo áp lực cho HS cũng giúp không khí lớp học trở nên nhẹ nhàng. Từ đó, HS cũng tự tin phát biểu ý kiến, mạnh dạn nói ra những khó khăn, vướng mắc giúp giáo viên có phương án tháo gỡ phù hợp.
Cô Nguyễn Thị Hường - Trường THCS Hà Bắc (Hà Trung, Thanh Hóa) đánh giá, nội dung môn Khoa học tự nhiên lớp 6, 7 ở phân môn Sinh rất thực tế, gần gũi với HS. Vì vậy, HS cũng dễ dàng trong việc tiếp cận và tìm tòi kiến thức.
“So với lớp 6, Chương trình lớp 7 phân môn sinh được sắp xếp khoa học và logic hơn. Với lớp 6, nội dung chương trình cũng phù hợp, tuy nhiên ở phần thực hành do chưa có trang thiết bị phù hợp nên giáo viên chỉ có thể cho các em quan sát trên video. Vì vậy, HS chưa trang bị được kỹ năng thực hành theo đúng yêu cầu”, cô Hường cho hay.
Theo cô Hường, hiện nay giáo viên đều tận dụng cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện có của nhà trường để giảng dạy. Với môn Khoa học tự nhiên, cô Hường thường áp dụng phương pháp trải nghiệm, thực hành, vấn đáp và hoạt động nhóm,... để tạo sự sinh động hứng thú cho giờ học.
“Với phương pháp thực hành thí nghiệm hiện vẫn chưa triển khai được thường xuyên do trang thiết bị đáp ứng theo yêu cầu Bộ GD&ĐT chưa cấp về. Vì vậy, chúng tôi thường áp dụng phương pháp phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường và địa phương”, cô Hường nói.
“Ứng dụng công nghệ tương tác thông minh không chỉ giúp giờ dạy diễn ra thuận lợi mà tiết học còn trở nên rất sinh động. Đặc biệt, việc ưu tiên kênh hình, kênh trực quan giúp học sinh dễ dàng nắm bắt kiến thức”, thầy Dương Minh Anh, Hiệu trưởng Trường THCS Cù Chính Lan.