Tỷ lệ trẻ em mầm non, nhất là trẻ 3 tuổi được tiếp cận chương trình GDMN chưa cao. Chủ động khắc phục khó khăn, nâng cao chất lượng nuôi dạy trẻ ở khu vực này đã được ngành Giáo dục và các nhà trường nỗ lực thực hiện.
Nỗ lực vượt khó
Bậc học mầm non được Yên Bái xác định bảo đảm quyền được nuôi dạy chất lượng, đặc biệt đối với khu vực miền núi, vùng dân tộc thiểu số. Phó Giám đốc Sở GD&ĐT Tô Thị Anh cho biết: "Khắc phục những khó khăn về cơ sở vật chất, đội ngũ, chúng tôi từng bước quy hoạch lại mạng lưới trường lớp cho phù hợp và tăng cường kiên cố hóa, chuẩn hóa.
Chúng tôi đang phấn đấu đến năm 2025, về quy mô, mạng lưới trường lớp phấn đấu huy động 30% trẻ em trong độ tuổi nhà trẻ ra lớp; huy động 97% trẻ em trong độ tuổi mẫu giáo ra lớp; huy động tối đa trẻ 4 - 5 tuổi ra lớp thực hiện mục tiêu phổ cập. Về chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ, duy trì 100% nhóm, lớp mầm non học 2 buổi/ngày".
Ông Phạm Mạnh Tưởng - Trưởng phòng GD&ĐT huyện Trấn Yên (Yên Bái) - chia sẻ: Chúng tôi cũng luôn đặt yêu cầu về chất lượng nuôi dạy trẻ. Đặc biệt là đối với những trường có nhiều học sinh dân tộc thiểu số, yêu cầu cũng được đặt ra ngày càng cao hơn. Nếu miền xuôi giáo viên phải cố gắng 1 thì vùng cao cố gắng 10.
Các thầy, cô giáo ở vùng cao, vùng dân tộc đã bám thôn bản, nỗ lực nuôi dạy trẻ để đạt được kết quả mong đợi. Đó là phát triển thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, phát triển tình cảm - kỹ năng xã hội và phát triển thẩm mỹ theo độ tuổi của trẻ. Ngành Giáo dục đã cố gắng cao nhất để trẻ 5 tuổi hoàn thành chương trình GDMN, có đủ năng lực và tiếng Việt bước vào lớp 1, đáp ứng tốt Chương trình GDPT 2018.
Trường Mầm non xã Hồng Ca, huyện Trấn Yên chủ yếu là học sinh người Mông và Tày. Cô giáo Hà Thị Thương Huyền cho biết: Trường có 3 điểm lẻ là Khe Tiến, Khe Ron, Hồng Lâu và đều là khu vực ĐBKK. Việc duy trì trẻ em trong độ tuổi nhà trẻ ra lớp, bảo đảm thực hiện mục tiêu phổ cập có sự giúp sức rất lớn của chính quyền xã cùng sự hỗ trợ nhiều của các tổ chức đoàn thể. Để đáp ứng được chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ, các cô giáo đã nỗ lực rất nhiều.
“Do địa bàn rộng phân tán, phụ huynh gửi con sớm, đón muộn nên tôi luôn động viên các cô gắng sức để hoàn thành trách nhiệm người giáo viên, thực đúng nghĩa là mẹ hiền của các con”, cô Hà Thị Thương Huyền nói.
Cô giáo Nông Thị Liễu dạy lớp 4 - 5 tuổi điểm trường Khe Tiến, nhà cách điểm trường 20 km. Ngày ngày không kể nắng mưa giá rét, đúng 6 giờ sáng, cô Liễu đã phải rời nhà đến trường. Cô Liễu chia sẻ: Điểm trường có tôi và 1 đồng nghiệp cùng dạy 1 lớp ghép 4 - 5 tuổi với 45 trẻ. Là điểm trường nên vô vàn khó khăn, nhưng đó chỉ là khách quan nên giáo viên tự động viên nhau nỗ lực vượt qua. Dù vất vả nhưng việc nuôi dạy trẻ luôn bảo đảm chất lượng, nhất là với trẻ 5 tuổi. Cuối năm học, các con có đủ năng lực vào lớp 1.
Rào cản và thách thức
Theo thống kê của Vụ GDMN, Bộ GD&ĐT, số trường vùng khó khăn và ĐBKK chiếm tỷ lệ 23% tổng số trường mầm non toàn quốc. Các trường này chủ yếu nằm ở vùng miền núi, dân tộc thiểu số, vùng biên giới, hải đảo. Năm 2021, báo cáo giám sát của Quốc hội cho thấy, GDMN vùng khó khăn có chất lượng còn thấp. Tỷ lệ phòng học kiên cố vùng khó khăn và ĐBKK khoảng 61%. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, thấp còi vùng khó khăn và ĐBKK còn cao so với vùng thuận lợi. Tỷ lệ chuyên cần thấp. Tỷ lệ huy động trẻ ra lớp thấp, đặc biệt là lứa tuổi nhà trẻ.
Cũng theo Báo cáo trên, có hơn 75 nghìn giáo viên đang trực tiếp dạy trẻ vùng khó khăn, trong đó, có gần 38 nghìn giáo viên người Kinh (51%), giáo viên người dân tộc là hơn 37 nghìn người (49%). Giáo viên biết tiếng dân tộc chiếm tỷ lệ khoảng 50%. Đội ngũ giáo viên vùng khó khăn và ĐBKK đạt tỷ lệ 0,66 giáo viên/lớp. Hiện còn thiếu trên 7 nghìn giáo viên mầm non của riêng vùng này. Đội ngũ giáo viên chưa được chuẩn bị sẵn sàng về vốn ngôn ngữ tiếng dân tộc thiểu số. Một bộ phận giáo viên chưa hiểu phong tục, tập quán, văn hóa địa phương để giao tiếp, chăm sóc, giáo dục trẻ nên hạn chế trong giao tiếp với trẻ và cộng đồng.
Phó Vụ trưởng Vụ GDMN Cù Thị Thủy cho rằng: Có một thực tế đang diễn ra là những giáo viên mầm non ở vùng ĐBKK đang chịu áp lực về mặt thời gian. Thường các cô phải đến sớm và về muộn, thời gian kéo dài hơn 8 tiếng/ngày. Nhiều nơi, tại các điểm lẻ, chỉ có 1 giáo viên/lớp.
Giáo viên phải kiêm cả nhiệm vụ đón và trả trẻ tại nhà vì một số phụ huynh không có điều kiện đưa đón con em của họ. Chính vì vậy, giáo viên thiếu thời gian để xây dựng môi trường trong lớp học, tổ chức hoạt động giáo dục phù hợp với trẻ. Bên cạnh đó, các vùng dân tộc thiểu số, miền núi do điều kiện địa lý, kinh tế - xã hội không thuận lợi nên đội ngũ giáo viên thường không ổn định, thiếu giáo viên. Trong bối cảnh đó, nỗ lực của nhiều địa phương nhằm khắc phục những khó khăn đó là rất đáng ghi nhận.