Dòng sông trăng huyền ảo

Dòng sông trăng huyền ảo

Tự truyện của Nhà giáo Nguyễn Ngọc Ký

(GD&TĐ) - Những ai từng vinh hạnh được học GS Hoàng Như Mai đều lưu mãi trong tâm khảm mình bóng hình  một người thầy mẫu mực, nhân từ. Mỗi tiết lên lớp của thầy là mỗi niềm mong đợi, khát khao. Mỗi bài giảng của thầy là mỗi kho kiến thức rộng lớn đầy khám phá, mới mẻ, cuốn hút.

Điều háo hức, tâm đắc, ấn tượng  ở mỗi sinh viên khi được học thầy  không chỉ  ở chỗ được truyền những kiến thức quý giá ấy mà còn luôn được truyền “lửa” trong mỗi lời giảng của thầy. Giọng thầy lúc nào cũng sang sảng vang ngân, nồng ấm.  Thầy còn chinh phục lũ sinh viên chúng tôi bằng sự thân thiện cởi mở không chỉ trong lời giảng mà còn trong từng cử chỉ, trong những xúc cảm phô bày nơi khóe miệng luôn thường trực nụ cười, nơi ánh mắt luôn dạt dào niềm trìu mến cảm thông.        

Người ta thường nghĩ các giảng viên đại học xưa nay mỗi khi lên lớp chỉ quan tâm việc truyền bá kiến thức chứ rất hiếm ai quan tâm đến học trò. Nhiều thầy dạy cả học phần dài vẫn không hề biết tên một  trò nào trong lớp. Với GS Hoàng Như Mai điều này hoàn toàn ngược lại. Tiếp xúc với thầy khi ngồi học ở lớp hay khi giao tiếp gặp gỡ thường ngày dù biết sự cách biệt giữa thầy với mình tới một hai thế hệ mà ai cũng cảm thấy nồng đượm sự trân trọng ấm áp, thân thương, gần gũi như không hề có khoảng cách.

GS Hoàng Như Mai
GS Hoàng Như Mai

Tiết dạy đầu tiên thầy đến với lớp tôi vào  một sáng đầu đông khi những đợt gió lạnh đầu mùa vừa tràn về. Gió đông bắc hú từng hồi quẩn từ hốc núi phả ra khiến cái lạnh càng như tăng thêm, cứ thế òa vỡ xối xả tràn vào lớp tôi- một căn nhà đơn sơ, lợp tranh nứa, nền trũng sâu chừng hơn nửa mét, xung quanh có tường đất dầy bao quanh trông như một  lô cốt đang thu mình dưới chân núi Tràng Dương (Trường Đại học Tổng Hợp ngày đó sơ tán về học ở Đại Từ, Thái Nguyên). Chiếc bàn của tôi  mặc nhiên thấp hơn hẳn so với các bàn khác của  lớp (nhà trường đóng riêng cho tôi để thuận lợi dùng chân viết), được ưu tiên kê gần cửa ra vào để đón ánh sáng không bị các bàn khác che khuất nên giờ cũng được “ưu  tiên” đón luôn những cơn gió lạnh kinh người ấy. Người tôi run lên, co ro theo từng cơn gió phả vào. Tôi cố làm động tác xoa xoa hai bàn chân vào nhau cho đỡ cóng mà khi cầm bút hai ngón chân vẫn cứng đơ, ngượng ngọng. 

Dường như nhận ra điều bất thường đó, vừa bước vào lớp thầy lặng lẽ rời bục giảng bước nhanh về phía bàn tôi. Vừa lúc cây bút của tôi rơi xuống đất (có lẽ chân bị cóng lại bất ngờ xúc động mạnh nên sinh luống cuống), thầy vội cúi nhặt, đặt lại vào bàn chân tôi rồi quay ra nói với cả lớp: “Có lẽ lớp nên bố trí chuyển bàn cho Ký (cứ như thầy đã biết tên tôi từ lâu) sang phía bên kia đi. Bên này đối diện với hướng gió. Lạnh quá thế này, Ký viết không được đâu.”. Lời thầy vừa dứt bốn bạn ngồi cạnh đã vội nhắc bổng chiếc bàn riêng mà tôi vẫn đang ngồi trên đó chuyển sang vị trí mới nơi cửa phía nam, giữa bao tiếng cười vui và ánh mắt xúc động của cả lớp. 

Giờ giải lao hôm đó thầy gặp riêng tôi hỏi han đủ chuyện. Tôi xúc động, nước mắt cứ chực ứa trào khi thầy nắn nắn vuốt vuốt hai cánh tay mềm oặt nhỏ thó đang ẩn mình trong ống tay áo lùng thùng của tôi (dường như sợ tôi chạnh lòng, mặc cảm trước các bạn nên thầy không dám vén tay áo tôi lên). 

Tôi nhớ mãi khi giảng bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu (trong phần văn học thời kháng chiến) thầy đã dạy chúng tôi bài học sống động về sức mạnh của lý tưởng và tình cảm: “Đấy các anh chị thấy không, một khi có lý tưởng  sống cao đẹp, có tình bạn, tình đồng chí chân chính người ta vẫn có quyền thăng hoa ngay cả những lúc tưởng chừng chỉ  có nước mắt.

Dường như chính trong gian khó con người trở nên tốt hơn, đẹp hơn, dễ thông cảm, thương yêu gắn bó với nhau hơn. Và dường như cũng trong gian khó con người trở nên lãng mãn hơn, lung linh những giá trị thẩm mỹ kỳ diệu bất ngờ hơn. Cho nên chúng ta không lạ gì khi  anh lính trẻ Chính Hữu cùng đồng đội trong đêm đứng gác trên đồi giữa mênh mông rừng hoang sương muối đã rung động nhận ra một hình ảnh tuyệt đẹp, thật quen mà thật lạ. Đó là hình ảnh “đầu súng trăng treo”.

Vậy là giờ đây nơi đầu ngọn súng giá băng mà nóng bỏng căm thù của các anh đã có vầng trăng dịu hiền thơ mộng đến làm bạn. Thật chân thực mà lãng mạn biết bao. Thế là từ người chiến sỹ phút chốc các anh đã hóa thân thành thi sỹ, thành những sứ giả của hòa bình, của cái đẹp.

Tôi rất mong và rất tin nơi đầu ngọn bút của các anh chị cũng  luôn treo những vầng trăng như vậy. Ví như đầu ngọn bút của anh Nguyễn Ngọc Ký hẳn các anh chị đã rõ, chắc không lúc nào không có một vầng trăng tròn đầy mơ mộng kết thân, luôn thúc dục anh vượt lên chính mình. Mong cả lớp ta với truyền thống luôn biết “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”, đặc biệt bàn tay không bình thường của Ký, giúp Ký vượt qua những khó khăn trước mắt hòa nhập cùng cả lớp đạt những đỉnh cao tri thức mới ở một ngày không xa.

Song để có được vầng trăng ở đầu ngọn bút cũng như các anh bộ đội  cụ Hồ từng nhận ra ở đầu cây súng của mình thì trước hết mỗi chúng ta phải luôn có vầng trăng ấy trong mỗi trái tim mình.”

Tôi có cảm tưởng trong thầy lúc nào cũng thường trực những tình cảm đặc biệt dành cho tôi. Cứ có cơ hội là thầy không bỏ qua, luôn tìm cách biểu hiện nó bằng những việc làm, những lời động viên chân tình sâu đậm bất ngờ như vậy đó.

Cuối năm thứ ba, tôi làm khóa luận với đề tài: “Một số suy nghĩ về thơ viết cho thiếu nhi”. Đề tài này không có trong kế họach  chỉ đạo của khoa mà do tôi tự đề xuất nên rất lo không được chấp nhận. Thật hạnh phúc, khi nghe tôi trình bày thầy Mai vui vẻ ưng thuận ngay. Thầy cười vỗ vai tôi:” À, được, được. Đây là đề tài mới, rất cần được nghiên cứu mà lâu nay chưa sinh viên nào quan tâm. Ký làm là hợp lắm. Vừa qua thầy đã đọc được một số bài thơ của Ký ở báo Thiếu niên Tiền phong. Thầy rất ưng bài “Núi bắt phi công”. Ký viết cho thiếu nhi thế là được đấy. Yên chí, thầy đề nghị chắc là ban chủ nhiệm khoa đồng ý thôi.”. Dưới sự hướng dẫn chu đáo, tận tình của thầy bản khóa luận ấy của tôi đã hòan tất trong niềm vui được khám phá sáng tạo những điều mình say mê yêu thích. Vậy là chính thầy đã khơi nguồn, chắp cánh, tạo đường băng để tôi từng bước chập chững tự tin hòa nhập cùng bầu trời văn học thiếu nhi từ đó.  Năm thứ tư, khi tôi làm luận văn tốt nghiệp cũng với đề tài tự đề xuất “Bác Hồ với thiếu nhi qua thơ viết cho tuổi thơ và thơ của Bác” thầy lại là người nhiệt thành ủng hộ và trực tiếp hết lòng hướng dẫn tôi thực hiện. 

GS Hòang Như Mai không chỉ  quan tâm, lo lắng, theo sát nâng đỡ từng bước đi của tôi trong suốt bốn năm học Đại học mà còn trong suốt những năm sau đó khi tôi đã ra trường. Chính thầy đã bàn với GS Ngụy Như Kom Tum ý định giữ tôi lại trường. Chính thầy đã nối nhịp cầu để tôi được làm quen với ông Việt Phương (bạn của thầy và là thư ký riêng của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ngày ấy) mà nhờ đó tôi được Thủ tướng  mời về gặp tại khu Quảng Bá, để rồi theo lời khuyên và giúp đỡ của Người  tôi trở về gắn bó với quê hương và gặt hái những thành công nhất định trong sự nghiệp giáo dục tuổi thơ nơi bục giảng, nơi những trang sách nhỏ suốt mấy chục năm qua. Để giúp tôi vợi bớt những ngày tháng trống trải, thấp thỏm buồn lo sau khi ra trường khá lâu vẫn chưa được phân công tác (trong khi các bạn bè hầu hết đã có nơi làm việc ổn định) chính thầy đã liên hệ để Sở Giáo dục Hải Phòng chủ động mời tôi ra giao lưu với học sinh các trường thành phố hoa phượng đỏ trong thời gian khá dài ở tất cả các quận, huyện với đầy ắp những kỷ niệm không quên. Chính thầy đã về dự lễ cưới của tôi, rồi cũng chính thầy đã trực tiếp trân trọng chuyển tới chúng tôi bức thư tay vô giá và món qùa chất nặng ân tình của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi mừng nhân dịp vui hạnh phúc của chúng tôi.

Những ngày đã chuyển vào công tác tại Sài Gòn thầy vẫn thường xuyên viết thư thăm hỏi tình hình sức khỏe và công tác của tôi  nơi mảnh đất quê nghèo Hải Hậu. Biết tôi đang bị bệnh viêm cầu thận chữa hoài chưa dứt, năm 1991 thầy đã viết thư động viên tôi nên vào thăm Tp. HCM  để chữa và cũng là cơ hội để  được gặp gỡ giao lưu theo nguyện vọng của học sinh, sinh viên thành phố. (Sau này tôi mới biết, để chuẩn bị cho chuyến đi của tôi được thuận lợi về mặt tâm lý và dư luận, thầy đã viết bài “một học sinh có chí”  rất công phu và xúc động giới thiệu về tôi  ở báo Sài Gòn Giải phóng). Hai năm sau (tháng 3-1993) tôi mới thực hiện được lời thầy khuyên. Theo địa chỉ thầy dặn, vừa đặt chân tới thành phố tôi đã tìm đến thăm thầy ngay. Thầy ôm chầm lấy tôi thân thiết xúc động như gặp lại đứa con yêu sau 23 năm xa cách. Ngay chiều hôm đó thầy đã dẫn tôi đến giới thiệu và dự buổi họp thường kỳ của Hội Nghiên cứu giảng dạy môn Văn của thành phố mà thầy làm chủ tịch. Sáng hôm sau qua liên hệ của thầy tôi được khoa Ngữ Văn trường Cao Đẳng sư phạm   mời đến giao lưu mở đầu cho những tháng ngày sau đó chương trình giao lưu của tôi với các trường liên tục được thực hiện trong niềm trân trọng xúc động trào dâng. Một thời gian sau thầy bàn với tôi nên quyết định chuyển hẳn công tác vào TP Hồ Chí Minh. Mặc dù được bác Đồng có ý kiến song việc này lúc đầu cũng gặp không ít khó khăn. Thầy lại vào cuộc giúp tôi hết lòng. Thầy dẫn tôi trực tiếp đến gặp giám đốc Sở Giáo dục Đào tạo Cao Minh Thì để đề xuất, thuyết phục. Thầy còn viết thư tay, gọi điện thọai, trao đổi trực tiếp với các vị quan chức lớn của thành phố nhân gặp gỡ ở các diễn đàn hội nghị để tranh thủ sự đồng tình của họ. Hơn một năm sau, biết tôi đã đạt nguyện vọng trên cả ước mơ: chẳng những chuyển được biên chế mà còn chuyển được toàn bộ gia đình vào thành phố mang tên Bác để sống và làm việc ổn định, thầy mừng lắm.

Từ đó đến nay cứ mỗi khi có niềm vui lớn, mỗi khi gặp trắc trở tôi lại đến thăm thầy để tâm sự, giãi bày. Mỗi lần như vậy là mỗi lẫn tôi lại cảm thấy mình vui thêm, tự tin thêm và khỏe thêm mọi nhẽ. Dù đã ở tuổi gần 90 mái tóc đã trắng xóa mầu mây phấn, bước đi đã chậm chạp song nhiệt huyết của thầy nơi ánh mắt, nơi giọng nói với văn chương, với giáo dục, với cuộc đời thì dường như vẫn sung sức, trẻ trung, nồng thắm như ngày nào. Thầy vẫn luôn là niềm tự hào là bài học sống cho  chúng tôi, cho cuộc đời hôm qua, hôm nay và mãi mãi.

Khi tôi đang ngồi viết những dòng kỷ niệm không thể quên này về thầy thì nghe ngoài phố có tiếng trẻ ồn ào náo động. Tôi mở cửa sổ nhìn ra mới biết hôm nay là trung thu, các cháu nhỏ trong khu phố tôi đang cùng nhau chơi rước đèn. Tôi bất chợt nhận ra nơi khung trời xanh cao vời vợi kia một vầng trăng tròn vạnh sáng trong như chưa bao giờ sáng và đẹp đến thế. Tôi lịm đi trong giây lát và miên man với suy nghĩ tôi đang lạc vào giữa dòng sông trăng huyền ảo kia, dòng sông trăng tấm lòng thầy tôi- GS Hoàng Như Mai, Nhà giáo Nhân dân Hoàng Như Mai muôn vàn kính yêu của tôi.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ