Đồng tình lùi thời gian áp dụng chương trình, SGK mới 1 năm
Theo đại biểu Nguyễn Thị Quyên Thanh, phương án lùi lại một năm thực hiện chương trình, SGK mới theo Tờ trình của Chính phủ với phương thức cuốn chiếu và giãn ra ở các cấp học là hợp lý, để các địa phương có thêm nhiều thời gian rà soát, sắp xếp quy mô trường lớp, tạo nền tảng về cơ sở vật chất tương xứng và đồng bộ về các yếu tố đổi mới.
Lý giải rõ thêm, đại biểu Nguyễn Thị Quyên Thanh cho rằng: Nội dung đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực phẩm chất, từng bước siết chặt chất lượng đào tạo theo hướng tăng cường quản lý chất lượng công tác kiểm định chất lượng được chú trọng.
Tuy nhiên, các điều kiện đảm bảo chính là chuẩn bị cho đội ngũ nhà giáo, cơ sở vật chất, được triển khai áp dụng so với lộ trình quy định tại Nghị quyết 88 vẫn còn nhiều khó khăn, do điều kiện và đặc thù riêng của từng địa phương.
“Xuất phát từ thực tiễn trên, tôi đồng tình với Tờ trình Chính phủ về việc lùi thời gian áp dụng chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới một năm” – đại biểu Nguyễn Thị Quyên Thanh nhấn mạnh.
Đại biểu Nguyễn Thị Quyên Thanh thống nhất với nhiều quan điểm cho rằng: SGK là công cụ của sự đổi mới và cần được chuẩn bị thật tốt để có tính ổn định và lâu dài; tuy nhiên, kiến thức SGK giáo dục phổ thông vốn đã là khoa học và cơ bản, việc thay đổi dựa trên những điều khoản chính thức đã có.
Điều quan trọng mang tính quyết định là chúng ta sử dụng công cụ đó như thế nào, bằng cách nào để nó trở thành những tri thức và kỹ năng cho mỗi học sinh.
“Nếu chúng ta có chương trình tốt mà đội ngũ nhà giáo chưa sẵn sàng, không tích cực hoàn thiện đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thì mọi quá trình đổi mới đều không đạt hiệu quả mong muốn.
Các nhà giáo gắn bó tận tụy với nghề, nhưng đồng lương rất thấp và điều kiện sống và làm việc khó khăn, nên chúng ta phải trân trọng và nhìn nhận đúng: Phần lớn đội ngũ nhà giáo đều là những người tâm huyết có trách nhiệm là yếu tố tích cực thay đổi và chuẩn bị về tâm thế để đổi mới” - đại biểu Nguyễn Thị Quyên Thanh cho hay.
Về các điều kiện để đảm bảo cơ sở vật chất, theo đại biểu Nguyễn Thị Quyên Thanh việc thay đổi lộ trình chỉ thực hiện ở lớp 1 trong năm đầu tiên, thay vì lớp 1 lớp 6 và lớp 10 đã giảm áp lực rất lớn từ nhiều phía.
Với phương án cũ, địa phương khó cùng một lúc có thể đủ kinh phí để triển khai cùng một lúc với 3 lớp đầu cấp. Vì ngoài chương trình quốc gia xây dựng nông thôn mới, các địa phương còn nhiều khó khăn trong cân đối ngân sách để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất vì phải thực hiện nhiều nhiệm vụ chính trị quan trọng.
Đại biểu Nguyễn Thị Quyên Thanh khẳng định: phương án lùi lại một năm như Tờ trình của Chính phủ theo phương thức cuốn chiếu và giãn ra ở các cấp học là hợp lý để các địa phương có thêm nhiều thời gian rà soát, sắp xếp các quy mô trường lớp, tạo nền tảng về cơ sở vật chất tương xứng và đồng bộ về các yếu tố đổi mới.
“Với góc nhìn là người công tác trong ngành, chúng tôi xem đây là cơ hội để ngành được tiếp tục quan tâm đầu tư để đảm bảo về cơ sở vật chất và trang thiết bị để tất cả các em học sinh có điều kiện và cơ hội học tập tốt hơn” – đại biểu Nguyễn Thị Quyên Thanh chia sẻ.
Những đề xuất tâm huyết
Để việc triển khai thực hiện trong thời gian tới hiệu quả và đạt mục tiêu để ra, đại biểu Nguyễn Thị Quyên Thanh đưa ra 3 đề xuất.
Thứ nhất: Để giáo dục có sự chuyển biến căn bản, mạnh mẽ, đề nghị Quốc hội cần xem xét đưa chỉ tiêu về giáo dục vào chỉ tiêu thực hiện phát triển kinh tế xã hội hàng năm của Chính phủ.
Ngoài những nhận định đánh giá về hạn chế và ưu điểm, đề nghị việc trước tiên cần quan tâm đầu tư nâng tỉ lệ về chất lượng trường đạt chuẩn quốc gia. Hiện nay cả nước chỉ có 57% trường đạt chuẩn, tỉ lệ này còn thấp so với mục tiêu cần đạt của lộ trình đổi mới.
Song song với đó, cần nghiên cứu để thay đổi tiêu chí về quy định về trường chuẩn, thích hợp với phương thức kiểm định chất lượng giáo dục, theo hướng nâng lên về chất lượng về sĩ số lớp học cũng như phương thức tổ chức lớp học bắt kịp với xu thế phát triển chung của các nước trong khu vực.
Hàng năm, đề nghị Quốc hội quan tâm và giao chi ngân sách cho lĩnh vực GD&ĐT đảm bảo 20% tổng chi ngân sách nhà nước để thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của ngành và thực hiện các chế độ chính sách đã ban hành.
Đề nghị Chính phủ phê duyệt đề án đảm bảo cơ sở vật chất cho giáo dục mầm non, phổ thông cũng như đảm bảo bố trí đủ kinh phí để các địa phương đầu tư cơ sở vật chất, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên đảm bảo tính đồng bộ.
Thứ hai, Bộ GD&ĐT sớm hoàn thành đồng bộ các chương trình đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, cán bộ quản lý của trường phổ thông, song song với việc ban hành chương trình, SGK để tổ chức tập huấn, bồi dưỡng giáo viên kịp thời với lộ trình triển khai áp dụng chương trình phổ thông, SGK mới.
Theo báo cáo của Bộ GD&ĐT hiện nay, giáo viên THCS và THPT thừa thiếu cục bộ. Vì thế, Bộ sớm quy định cụ thể việc bồi dưỡng văn bằng hai, môn nào được quy đổi, môn nào được tính tương đương, môn nào được học thêm và bồi dưỡng thêm để địa phương và các cơ sở giáo dục xây dựng phương án rà soát, đánh giá lại đội ngũ, cũng như có giải pháp khắc phục thừa thiếu giáo viên cục bộ và bản thân giáo viên có sự chuẩn bị bồi dưỡng để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Hướng tới, Bộ GD&ĐT cũng cần nghiên cứu để thay đổi tiêu chí đánh giá đầu ra của các trường sư phạm theo chuẩn thống nhất.
Thứ 3: Đề nghị chính phủ sớm ban hành chính sách cải cách tiền lương tương xứng với sức cống hiến của nhà giáo. Phải tạo động lực cho đội ngũ yên tâm công tác và thực hiện đổi mới.
Từ Nghị quyết Trung ương II khóa VIII, đến Nghị quyết 29 đều khẳng định lương nhà giáo được ưu tiên xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp. Chúng ta nói nhiều về vấn đề này nhưng chưa có động thái cụ thể.
Theo quy định về chế độ tiền lương, mỗi nhà giáo đi từ bậc lương thấp nhất đến bậc cao nhất trong bậc lương của mình là 24 năm với giáo viên mầm non, giáo viên tiểu học và 30 năm với giáo viên THCS, 27 năm với giáo viên THPT.
Lương giáo viên mầm non, tiểu học từ bậc 1 là 1.86 đến bậc 12 là 4.26; với mức lương cơ bản hiện tại thì trong 24 năm công tác là tăng không đáng kể (chỉ tăng khoảng 2.860.000 đồng). Rõ ràng, điều này khó tạo động lực cho nhà giáo phấn đấu và chưa song hành với mục tiêu đổi mới.