(GD&TĐ) - Vừa là giáo viên dạy giỏi, vừa là người viết văn, viết báo không chuyên có nhiều tác phẩm để lại ấn tượng trong lòng người đọc, cô đã nhận được nhiều giải thưởng từ cấp địa phương đến quốc gia. Giàu nghị lực, có hoài bão lớn, cô đã vượt qua bao nghịch cảnh cuộc đời để có được thành công như ngày hôm nay.
Cô giáo Nguyễn Thị Việt Hà |
Tuổi thơ nhọc nhằn
Nguyễn Thị Việt Hà chào đời năm 1978 trong một gia đình nông dân nghèo ở Cà Mau. Quê nội của cô ở Nam Định, còn quê ngoại thì ở Bắc Giang. Lúc Hà mới 8 tuổi, là chị cả của hai em thì người cha đã bỏ gia đình đi theo tiếng gọi của tình yêu mới. Nhà không có ruộng đất nên mẹ cô phải tảo tần buôn bán để nuôi ba con ăn học. Ở vùng sâu ngập mặn của Cà Mau khó sống nên cuối năm 1993, người mẹ dắt ba chị em lên vùng kinh tế mới ở Madagui, Lâm Đồng để tìm kế sinh nhai. Bốn mẹ con ở trong căn nhà xiêu vẹo tận xó rừng Madagui luôn ầm ào thác lũ. Nhiều hôm Hà phải theo mẹ vào rừng đi kiếm củi hay làm cỏ thuê để có tiền mua gạo sống qua ngày.
Khó khăn luôn theo đuổi nên mẹ Hà lại đưa ba con về Bắc Giang, rồi lại từ Bắc Giang trở lại Cà Mau. Tới năm 2004, người mẹ tội nghiệp qua đời vì bệnh ung thư thận giai đoạn cuối, để lại ba người con ở Cà Mau. Lúc này Việt Hà và cô em kế đã ra trường, còn cậu em út đang theo học Cao đẳng Sư phạm.
Nén nỗi đau mất mẹ, không bố, cô thay mẹ dìu dắt các em trưởng thành. Ba chị em sống dựa vào nhau và nhớ mãi chuyện “ba hạt đậu xanh” mà mẹ đã dạy về cách sống, làm người. Trong bài thơ “Người đàn bà cõng nỗi đau trên lưng”, cô đã viết về mẹ với những câu nhói tim người đọc:
Mẹ cõng nắng trên lưng, cõng
mưa trên vai, trên mắt
Cõng con trong lòng
Cõng mình trên những
nỗi đau.
Mẹ dạy những đứa con vắt đêm
thành bình minh
Vắt cơn đói thành khát vọng
Mẹ nhận về mình bãi hoang
trên cánh đồng nứt nẻ
để vỡ đất gieo hạt mùa
gió ngược.
Vượt qua gian khó
Năm 1996, Hà thi đậu vào ba trường Đại học nhưng vì nhà nghèo, không thể theo học được. Cô xuống Cà Mau lột tôm ba tháng ở Công ty xuất nhập khẩu hải sản Cadovimex để kiếm tiền lo cho hai em. Với lòng ham học, cô mạnh dạn xin thầy Hiệu trưởng trường Cao đẳng Sư phạm Bạc Liêu lúc bấy giờ là Phan Anh Dzinh chiếu cố cho học. Thầy Dzinh thương hoàn cảnh của Hà, đặc cách cho cô học lớp 17C2 khoa Văn, hệ chính quy. Cô quyết tâm học thật giỏi để có học bổng hầu tiếp tục học lên. Vừa học vừa làm “gia sư”, dạy kèm cho con em một số gia đình, rảnh lúc nào lại tranh thủ rửa chén cho một nhà hàng gần trường. Tối thì viết báo, viết văn để có thêm thu nhập, nuôi hai em. Cứ thế, cô trang trải việc của mình và giúp hai em học hành đến nơi đến chốn. Ngoài ra, cô còn học tiếp Đại học ngành Ngữ văn và Quản lý giáo dục.
Năm 1999, ra trường dạy học được một năm, Hà nhận tiếp bằng tốt nghiệp Đại học hai ngành học thêm đó. Với sự phấn đấu tu dưỡng cao, năm 2001 Hà đã vinh dự được đứng vào hàng ngũ của Đảng. Rồi năm 2001 cô lập gia đình, hai em cũng đã ra trường có việc làm, khó khăn cũng dần qua đi.
Việt Hà (bìa trái), nhận giải Nhì truyện ngắn ĐBSCL |
Vịn vào văn chương mà đứng dậy
Hà có năng khiếu về thơ văn từ bé. Năm 10 tuổi đã là phóng viên nhí, của báo Thiếu Niên Tiền Phong. Từ đó tới nay, cô không ngừng sáng tác đủ thể loại: thơ, truyện ngắn, bút ký, tản văn, bình thơ… Hiện nay, cô là cộng tác viên thường xuyên của nhiều tờ báo và tạp chí từ trung ương đến địa phương, được nhiều giải thưởng văn học cao quý…
Hà đi dạy ngày hai buổi, thời gian dành cho văn chương là lúc công việc, cuộc sống thường nhật của một người giáo viên, người vợ, người mẹ đã tạm lắng xuống. Người ta thường bảo con gái mà dấn thân vào con đường văn chương thì gặp nhiều đa đoan lắm. Nhưng với cô, văn chương là niềm vui, niềm hạnh phúc. Những lúc đau khổ, cô “vịn vào văn chương mà đứng dậy”. Hà cho biết về quan niệm văn chương của mình: “Với tôi, văn chương còn là ơn nghĩa. Là ‘nghĩa’ vì nó bồi đắp cho tôi lòng yêu thương, có duyên gặp được những người ân tình. Tôi còn được gặp bao phận người tận khổ nhưng vẫn sống tốt đẹp. Tôi không còn cô đơn khi bên cạnh mình có nhiều người tốt, và có văn chương là người bạn thủy chung. Là ‘ơn’ vì văn chương đã góp phần nuôi sống ba chị em và cả sự nghiệp chúng tôi đang có được. Văn xuất phát từ tâm hồn và cuộc sống đa sắc màu. Tôi đến với văn chương đơn giản và phức tạp như thế đó! Và viết gì cũng được, miễn điều đó xuất phát từ trái tim mình. Viết như là để thở”.
Viết văn chỉ là nghề “tay trái” của cô, vậy nó có ảnh hưởng gì đến nghề “tay phải” là dạy học? Hà tâm sự: “Tôi đến với văn chương như cái cách của bao nhiêu người đến với thứ ánh sáng nghệ thuật mê đắm này, nghĩa là đam mê, khát vọng và có một chút duyên may. Tôi bắt đầu tập viết những bài thơ, những bài văn ngắn khi còn học lớp 3 và được báo Thiếu Niên Tiền Phong đăng. Những khoản nhuận bút đầu tiên đủ cho tôi mua các bộ sách văn học kinh điển, như: Tiếng chim hót trong bụi mận gai, Những người khốn khổ, Ruồi trâu, Cuốn theo chiều gió, Ngôi nhà có bẩy đầu hồi, Con tàu trắng, Nhà thờ Đức bà Paris, Anna Karenina, Tội ác và hình phạt… Những cuốn sách ấy làm tôi say mê, bồn chồn. Tình yêu văn chương cứ ngấm dần, đến một lúc nhận ra mình không thể từ bỏ văn chương được. Tôi trở thành cô giáo dạy văn là vì thế. Như là một cái duyên, văn chương và nghề giáo có sự tương đồng nên nhiều nhà văn, đồng thời lại là nhà giáo. Nghề giáo là một nghề rất khó vì nó luôn phải tuân theo những khuôn mẫu, mô phạm. Trong khi đó, viết văn, làm thơ là sự sáng tạo và bung phá không ngừng. Viết văn giúp tôi dạy văn linh hoạt và hay hơn, bớt khô cứng trong giờ giảng, còn nghề giáo cho tôi sự trầm tĩnh, chín chắn. Khi đặt bút viết điều gì, tôi thường nghĩ: Đồng nghiệp khi đọc sẽ nghĩ gì? Học trò đọc sẽ nghĩ gì? Chính điều ấy khiến tôi có trách nhiệm với từng con chữ mà mình viết ra”.
Vĩ thanh
Hà cho biết, trong tương lai cô vẫn viết như hít thở khí trời. Nghĩa là vẫn mong tác phẩm của mình được in báo, in sách, và ước được độc giả cầm quyển sách hay bài báo của mình mà suy nghĩ, nghiền ngẫm về nó. “Tôi biết cuộc đời của bất kì ai cũng có nhiều thử thách nhưng đồng thời cũng có rất nhiều cơ hội để mình lựa chọn”- Hà nói
Mười ba năm dạy học và mười sáu năm viết văn, làm báo là khoảng thời gian để cô hiểu thế nào là con đường văn chương gập ghềnh nhưng cô không thể bỏ, dù con đường ấy đi không bao giờ tới đích, càng đi càng thấy xa ngái. Bởi khi đi trên con đường chông gai, vất vả ấy mình sẽ nhận ra chân giá trị cuộc sống. Và vì thế, Hà càng quý trọng niềm vui, hạnh phúc, không thể bỏ văn chương.
Lê Xuân