Khi ngày càng nhiều trẻ em gặp các vấn đề về cảm xúc và phát triển thần kinh, hợp tác đa ngành giữa y học, tâm lý, giáo dục và công tác xã hội trở thành hướng đi tất yếu.
Khi mỗi đứa trẻ đều cần được thấu hiểu
“Các vấn đề liên quan đến sức khỏe tâm thần ở Việt Nam, bao gồm tình trạng rối loạn tâm thần, ngày càng gia tăng, đặc biệt là trầm cảm và lo âu, có xu hướng trẻ hóa và ảnh hưởng đến cả trẻ em, thanh thiếu niên và phụ nữ. Khoảng 14,9% dân số Việt Nam, tương ứng gần 15 triệu người, mắc một trong mười rối loạn tâm thần phổ biến”, GS.TS.BS Đặng Vạn Phước, Hiệu trưởng danh dự Trường Đại học Khoa học Sức khỏe (Đại học Quốc gia TPHCM), cho biết thống kê trên tại Hội thảo Quốc tế về Sức khỏe Tâm thần năm 2025 diễn ra mới đây tại TPHCM.
Theo GS Phước, với nhóm trẻ em, các khảo sát tại địa phương cho thấy có từ 8 - 20% trẻ em và thanh thiếu niên gặp vấn đề về sức khỏe tâm thần, thường là rối loạn cảm xúc như lo âu, trầm cảm hoặc rối loạn hành vi như khó khăn trong quan hệ bạn bè, rối loạn ứng xử, tăng động giảm chú ý.
Đây không chỉ là cảnh báo y tế, mà còn là vấn đề xã hội nghiêm trọng, bởi những tổn thương tinh thần ở trẻ nếu không được phát hiện và can thiệp sớm sẽ để lại hệ quả suốt đời, ảnh hưởng đến học tập, hành vi và sự phát triển nhân cách.
Trong thực tế, các biểu hiện rối loạn cảm xúc và hành vi ở học sinh đang ngày càng trở nên phổ biến. Câu chuyện của Nguyễn Minh Anh, học sinh lớp 8 (phường Hiệp Bình, TPHCM) là ví dụ điển hình cho những tổn thương tinh thần âm thầm ấy. Vốn là một học sinh khá, sau khi cha mẹ ly hôn, Minh Anh trở nên trầm lặng, thường xuyên mệt mỏi và mất ngủ.
Em ít nói, hay ngồi một mình trong lớp, thậm chí có lúc bật khóc giữa giờ học mà không rõ lý do. Những ngày kiểm tra, em thường lo lắng quá mức, mất tập trung; điểm số vì thế cũng giảm dần. Cảm giác bất an, buồn bã và cô đơn kéo dài khiến Minh Anh thu mình, sợ giao tiếp, thậm chí từng có lúc tự trách bản thân là nguyên nhân khiến gia đình tan vỡ.
Một lát cắt khác là câu chuyện của K.M.L., học sinh lớp 10 tại một trường THPT ở tỉnh Tây Ninh. Từng là học sinh năng nổ, học giỏi và được thầy cô kỳ vọng, nhưng chỉ sau vài tháng, L. trở nên khép kín, ít nói, thường xuyên xin nghỉ học.
Nguyên nhân bắt đầu từ những lời nói xấu, dọa nạt và tẩy chay của một nhóm bạn cùng lớp. Những tin nhắn chế giễu trên mạng xã hội khiến L. sợ hãi đến mức không dám mở điện thoại. Áp lực, lo âu và cảm giác bị cô lập khiến em mất ngủ, chán ăn và không còn hứng thú với việc học.
Câu chuyện của Minh Anh hay K.M.L. không phải là cá biệt. Khi sức khỏe tinh thần bị tổn thương, học sinh không chỉ chịu đựng nỗi đau vô hình, mà còn dễ đánh mất động lực học tập và niềm tin vào bản thân.
Từ thực tế này, GS Phước nhấn mạnh việc chăm sóc sức khỏe tinh thần cho trẻ em và học sinh phải được nhìn nhận như một nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục hiện đại. Các chính sách và mô hình hay cần được nhân rộng và thực hiện một cách đồng bộ, gắn kết hơn giữa các ngành y tế, giáo dục, công tác xã hội và truyền thông.

Từ giáo dục đến y khoa
PGS.TS Trần Thị Lệ Thu (Viện Khoa học Xã hội, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội) cho rằng, không một lĩnh vực đơn lẻ nào có thể đáp ứng trọn vẹn nhu cầu của trẻ rối loạn phát triển thần kinh (tự kỷ, rối loạn ngôn ngữ, tăng động giảm chú ý hay rối loạn học tập đặc hiệu…).
“Chúng ta cần đội ngũ đa chuyên môn, từ y khoa, tâm lý học, giáo dục đặc biệt, công tác xã hội đến ngôn ngữ trị liệu cùng đồng hành”, bà Lệ Thu nói.
Sự phối hợp liên ngành để giải quyết vấn đề này, theo PGS Thu, là xu hướng tất yếu trên thế giới và cũng là cách để thực hiện quyền được chăm sóc, học tập và phát triển toàn diện của mọi trẻ em - đúng với tinh thần mà nhiều công ước quốc tế đã đề cập.
Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, dù mới manh nha, mô hình hợp tác đa ngành trong chăm sóc sức khỏe tinh thần học đường đã bắt đầu hình thành. ThS Bùi Ngọc Diễm, Giám đốc Công ty TNHH Tư vấn và Giáo dục Hoàng Đức cho biết, tổ chức của mình hoạt động như một “tổ hợp liên ngành”, nơi hơn 50 chuyên gia cùng tham gia từ các lĩnh vực khác nhau: Bác sĩ tâm thần, bác sĩ phục hồi chức năng, nhà tâm lý lâm sàng, chuyên viên giáo dục đặc biệt, kỹ thuật viên hoạt động trị liệu và ngôn ngữ trị liệu.
“Chúng tôi triển khai đồng thời đánh giá, can thiệp sớm, tư vấn và nghiên cứu ứng dụng, hướng tới nâng cao chất lượng sống của trẻ và gia đình thông qua các dịch vụ tích hợp, toàn diện và nhân văn. Mô hình này không chỉ giúp trẻ được hỗ trợ từ nhiều góc độ, mà còn giúp cha mẹ, giáo viên và chuyên gia y tế cùng có chung một tiếng nói trong quá trình đồng hành”, ThS Diễm chia sẻ.
Theo TS Lê Minh Công, Giám đốc Chương trình Nghiên cứu và Hỗ trợ Sức khỏe Tinh thần (Viện ISSH), Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia TPHCM), lĩnh vực chăm sóc sức khỏe tinh thần ở Việt Nam hiện còn nhiều “khoảng trống”.
Các nghiên cứu trong lĩnh vực này hiện nay còn hạn chế, trong khi nguồn nhân lực chuyên sâu cho trị liệu và phục hồi chức năng tâm lý vẫn rất thiếu. Phần lớn chuyên gia mới được đào tạo về phục hồi thể chất hoặc quản lý trị liệu, chưa có nhiều người được trang bị bài bản về trị liệu tâm lý và hoạt động trị liệu.
“Để chăm sóc sức khỏe tinh thần cho học sinh hiệu quả, cần tăng cường kết nối giữa các lĩnh vực như y khoa, tâm lý, giáo dục và công tác xã hội, hướng tới xây dựng một hệ thống hỗ trợ thống nhất, chuyên nghiệp và nhân văn hơn”, TS Công nhấn mạnh.
“Nghiên cứu toàn diện về các yếu tố liên quan đến trường học ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần và sự phát triển toàn diện của trẻ em nam và nữ vị thành niên tại Việt Nam” (năm 2022) do Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) tại Việt Nam phối hợp với Bộ GD&ĐT công bố cho thấy: 20% trẻ vị thành niên có vấn đề về sức khỏe tâm thần, nhưng chỉ 8,4% các em được tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ hoặc tư vấn. Ngoài ra, 5,1% cha mẹ có con vị thành niên nhận thấy con mình cần được giúp đỡ đối với các vấn đề về cảm xúc và hành vi.