Vượt xa những quan niệm về dân của Nho giáo, Nguyễn Trãi đã đem đến những khía cạnh mới, mở rộng biên độ của khái niệm dân để đến gần với tinh thần thân dân, gần dân, lo lắng cho dân.
1.
Nguyễn Trãi (1380 - 1442) tự Ức Trai là nhà chính trị, quân sự, ngoại giao kiệt xuất đồng thời còn là nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới.
Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi có ảnh hưởng quan trọng trong tiến trình phục hồi, xây dựng nhà nước Đại Việt ở đầu thế kỷ XV nhưng cũng là người chịu những oan khiên thảm khốc nhất trong lịch sử. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Trãi rất đồ sộ gồm cả bằng chữ Hán và chữ Nôm, tiêu biểu như Bình Ngô đại cáo, Quân trung từ mệnh tập, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập, Chí Linh sơn phú, Lam Sơn thực lục, Dư địa chí...
Trong các trước tác của Nguyễn Trãi, tập thơ chữ Nôm Quốc âm thi tập có vị trí hết sức quan trọng trong tiến trình lịch sử Văn học Việt Nam cũng như sự phát triển của Văn học chữ Nôm giai đoan này. Tập thơ được ví như bông hoa đầu mùa của thành tựu văn thơ viết bằng ngôn ngữ dân tộc, một điểm đáng lưu ý trong Quốc âm thi tập là Nguyễn Trãi đã rất nhiều lần nhắc đến chữ dân, phạm vi bài viết nhỏ này xin được bàn thêm về điều đó nhằm giúp bạn đọc hiểu thêm về chữ dân theo tinh thần của Nguyễn Trãi.
2.
Chữ “dân” vốn được đề cập rất sớm trong học thuyết của Nho giáo, Khổng Tử, Mạnh Tử rất nhiều lần bàn về dân hay thần dân, dân đen, con đỏ trong sự đối lập với vua, quan. Dân theo tư tưởng Nho giáo trước hết là các tầng lớp sĩ, nông, công, thương và rộng ra là tất cả mọi người dưới quyền cai trị của một ông vua. Nho giáo đặt ra tương quan giữa vua và thứ dân, trăm họ để nhắc nhở các ông vua tương quan này, dân được coi là gốc của nước (Dân vi bang bản).
Đề cập đến vai trò của dân trong quan hệ với vua và triều đình phong kiến, Nho giáo cho rằng: “Vua là thuyền, thứ dân là nước, nước có thể chở thuyền, nước chở thuyền nhưng nước lại đánh đắm thuyền” (Quân giả chu dã, thứ nhân giả thủy dã; thủy tắc tải chu, thủy tắc phúc chu). Mạnh Tử khẳng định: “Dân là quý nhất, rồi đến xã tắc, vua là khinh, cho nên được lòng dân rồi mới làm thiên tử” (Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh, thị cố đắc hồ dân nhi vi thiên tử).
Nguyễn Trãi tiếp thu quan niệm về dân theo tinh thần Nho giáo nhưng đồng thời có sự vận dụng linh hoạt cũng như phát triển quan niệm về chữ dân xa hơn gắn với tinh thần dân tộc, với tư tưởng nhân đạo, nhân văn của thời đại. Trong tác phẩm quan trọng bâc nhất của mình là Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã nhiều lần nhắc đến dân, chữ dân được gắn với tư tưởng Nhân nghĩa, gắn với truyền thống tốt đẹp của dân tộc, gắn với tinh thần yêu nước nồng nàn:
- Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
- Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
- Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế,
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm.
- Nhiễu nhân dân, bắt hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
- Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần dân chịu được?
- Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
- Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Anh hùng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi. |
3.
Quan niệm về dân được thể hiện rất rõ trong tập thơ chữ Nôm Quốc âm thi tập, tập thơ có vị trí quan trọng trong sự nghiệp Ức Trai cũng như trong tiến trình lịch sử văn học dân tộc. Quốc âm thi tập gồm 254 bài chia nhiều phần như Vô đề, Môn thời lệnh, Môn hoa mộc, Môn cầm thú… tập hợp các bài thơ chữ Nôm chủ yếu viết theo thể thất ngôn bát cú, thất ngôn xen lục ngôn và tứ tuyệt, được sáng tác trong khoảng thời gian khá dài.
Trong tập thơ nhiều lần Nguyễn Trãi nhắc đến dân nhất là các mục Thuật hứng, Mạn thuật, Trần tình, Bảo kính cảnh giới. Trước hết Nguyễn Trãi đề cập đến dân, thứ dân, thần dân theo tư tưởng Nho giáo, tức là dân trong tương quan với vua, dưới sự cai quản của vua, những đã lồng vào đó ngụ ý về một ông vua sáng hay gửi gắm trong đó ước mơ về một ông vua hiền (như vua Ngiêu, vua Thuấn). Dân được hiểu trước hết là sĩ, nông, công, thương:
Bốn dân có nghiệp cao cùng thấp
Đều hết làm tôi Thánh thượng hoàng
Tức sự, bài 4
Dân với Nguyễn Trãi không ngoài quan niệm về xã hội phong kiến nhưng đó là xã hội lý tưởng vua sáng, tôi hiền, thái bình, thịnh trị. Mẫu ông vua lý tưởng là Nghiêu, Thuấn chính vì vậy rất nhiều lần Nguyễn Trãi nhắc đến hai vị vua với một lòng kính ngưỡng luôn khao khát, ước mong về một xã hội tốt đẹp của một thời vang bóng, không chỉ vua sáng mà dân cũng biết đạo, biết lễ nghĩa, đó vừa là giả định nhưng cũng vừa là khát khao của Nguyễn Trãi:
Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn
Dường ấy ta đà phỉ sở nguyền
4.
Vượt xa những quan niệm về dân của Nho giáo, Nguyễn Trãi đã đem đến những khía cạnh mới, mở rộng biên độ của khái niệm dân để đến gần với tinh thần thân dân, gần dân, lo lắng cho dân.
Có thể nói cũng như trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã nhiều lần đứng về phía nhân dân để che chắn, bảo vệ cho dân. Trong thơ chữ Hán viết sau chiến thắng Lam Sơn, Nguyễn Trãi cũng từng khẳng định: Thánh tâm dục dữ dân hưu tức/ Văn trị chung tu trí thái bình (Lòng bậc thánh nhân muốn để dân yên nghỉ/ Rốt cuộc phải xây dựng thái bình bằng văn trị - Quan duyệt thủy trận). Chữ dân được Nguyễn Trãi cụ thể hóa bằng kẻ cấy cày, người lao động chân tay làm ra của cải vật chất cho xã hội:
Ở yên thì nhớ lòng xung đột
Ăn lộc, đền ơn kẻ cấy cày
Bảo kính cảnh giới, bài 19
Trong bài thơ Trần tình 1, Nguyễn Trãi dằn vặt rằng mình không làm được gì giúp quốc phú binh cường rồi tự trách mình chẳng giúp ích được gì cho dân. Đó là sự thành thực khiêm tốn của một bậc đại thần luôn lo lắng cho dân, luôn luôn mong mỏi cho lợi ích của nhân dân. Nguyễn Trãi có khi từ trách nhiệm của người làm quan, chăn dân, dẫn dắt dân mà tự răn mình không được làm tổn hại đến dân:
Quốc phú binh cường chăng có chước,
Bằng tôi nào thửa ích chưng dân
Trần tình, bài 1
Đọc sách thì thông đòi nghĩa sách
Đem dân, mựa nữa mất lòng dân
Bảo kính cảnh giới, bài 57
Tập thơ “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi. |
5.
Mục Bảo kính cảnh giới (Gương báu răn mình), gồm 61 bài, bài 43 được đưa vào chương trình Ngữ văn 10 (bộ Cánh diều), có thể nói Nguyễn Trãi đã phác họa một bức tranh ngày hè vô cùng sinh động trong một hoàn cảnh lý tưởng của cuộc đời: Rồi hóng mát thuở ngày trường để làm thơ, ngắm cảnh.
Những tán hòe xanh lục bao trùm khoảng không xanh mát, màu đỏ của hoa thạch lựu phun trào bên hiên, sen ngoài ao ngát hương, tiếng ve inh ỏi, đặc biệt âm thanh lao xao chợ cá từ làng chài xa dội lại trong lòng khiến Nguyễn Trãi hân hoan, vui sướng và ao ước có cây đàn của vua Thuấn để gảy khúc Nam phong ca cảnh đời thái bình, thịnh trị.
Theo thần thoại Trung Quốc, vua Thuấn làm chiếc đàn 5 dây, gảy khúc “Nam phong”. Trong khúc hát Nam phong có câu “gió Nam hoà ấm có thể giải được sự oán hận của dân, gió Nam hợp thời có thể làm cho dân ta thêm nhiều của cải”. Nguyễn Trãi từ đó mà ao ước có cây đàn ấy, tức là dùng đức trị của một nhà Nho hành đạo luôn quan tâm tới dân:
Rồi hóng mát thuở ngày trường,
Hoè lục đùn đùn tán rợp giương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương.
Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương
Bảo kính cảnh giới, bài 43
Mặc dù bài thơ nói về cảnh ngày hè nhưng điểm kết lại ở thi phẩm không ở cảnh thiên nhiên mà lại trở về với dân, Nguyễn Trãi mong cho dân được giàu đủ nhưng là cho cả mọi người ở khắp mọi nơi. Theo nhiều nhà nghiên cứu, thời điểm ra đời bài thơ có lẽ gắn với quãng thời gian Nguyễn Trãi về Côn Sơn.
Sau khi chiến thắng quân Minh, Lê Lợi lên ngôi nhưng chẳng bao lâu, Nguyễn Trãi và nhiều bạn đồng chí đã không được tin dùng, có khi bị gièm pha, đố kị, nghi ngờ dẫn đến kết cục Tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn trẫm mình, Thái úy Phạm Văn Xảo bị chém, bản thân Nguyễn Trãi bị bắt giam, rồi sau đó được trả tự do, về sống đời nhàn dật ở Côn Sơn khoảng hơn mười năm, mãi đến khi Lê Thái Tông lên ngôi, Nguyễn Trãi mới được bổ dụng trở lại.
Khoảng thời gian ở Côn Sơn chắc chắn Nguyễn Trãi đã sáng tác những tác phẩm tiêu biểu như Bài ca Côn Sơn, cũng như nhiều bài trong Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập. Mặc dù cuộc đời có nhiều chuyện buồn nhưng Nguyễn Trãi vẫn gác lại những tâm sự riêng của mình để vui với niềm vui của dân chúng trong cảnh thái bình, điều đó cho ta thấy tấm lòng yêu thương dân của thi nhân cao cả biết nhường nào.
Phải chăng khi chọn đề mục Bảo kính cảnh giới với 61 bài, Nguyễn Trãi đã có ý tự răn, tự nhắc nhở mình không được xao nhãng, không được xa rời dân, phải luôn chăm lo cho dân. Sách Đại Việt sử ký toàn thư còn ghi lại câu trả lời của Nguyễn Trãi với vua Lê Thái Tông khi được cử soạn lễ nhạc cho triều đình, bài biểu có đoạn: “Hòa bình là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc...
Dám mong Bệ hạ rủ lòng yêu thương và chăm nuôi muôn dân, khiến cho thôn cùng xóm vắng không có một tiếng hờn giận oán sầu, đó tức là giữ được cái gốc của nhạc vậy” (Đại Việt sử ký toàn thư, trang 563, NXB văn học, 2009).
Bài thơ Gương báu răn mình 43 cũng như nhiều thi phẩm khác trong tập thơ được viết bằng thể thất ngôn xen lục ngôn mang nét sáng tạo riêng của Ức Trai, đó cũng là một bước tiến quan trọng trong việc Việt hóa thể thơ Đường luật, khiến nhiều bài thơ có sự mềm mại, dung dị, gần với lời ăn tiếng nói, với tâm hồn người Việt. Câu mở đầu và kết lại bài Gương báu răn mình 43 đều là câu thơ lục ngôn với sự dồn nén cảm xúc rất cao, góp phần thể hiện tâm hồn Nguyễn Trãi, một tâm hồn luôn đau đáu với nhân dân.
Ảnh minh họa. |
6.
Nói thêm về chữ dân trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi giúp chúng ta hiểu thêm về con người, về tư tưởng của một bậc đại Nho, người anh hùng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới. Những tư tưởng ấy của Nguyễn Trãi đến nay vẫn còn nguyên giá trị, nó góp phần làm phong phú và sáng ngời những minh triết của dân tộc ta.
Để khép lại bài viết nhỏ này, tôi xin dẫn lại ý kiến của nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn: “Ngày nay, đất nước ta đang tiến bước trên con đường xây dựng một xã hội dân chủ, do dân, vì dân, của dân. Nhớ lại các bài học tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi là một dịp để hình dung lại các bước đường tư tưởng không hề bằng phẳng mà dân tộc ta đã trải qua, và có thêm quyết tâm xây dựng một xã hội đúng như mong mỏi của nhà văn hóa vĩ đại”.
* Bài Nguyễn Trãi - Sách giáo khoa Ngữ văn 10, bộ Cánh diều