Đó là danh sách học sinh các lớp thầy đã từng dạy với đầy đủ lí lịch trích ngang như hình ảnh, ngày tháng năm sinh, quê quán, họ tên cha mẹ, nghề nghiệp, năm học,…và sổ điểm môn học của thầy là môn Hán Nôm.
Trò chuyện với thầy, tôi được biết: Thầy sinh năm 1938 ở Bến Tre. Sau khi tốt nghiệp Trung học, từ năm 1962-1972, thầy học ở Học viện Đại học Sài Gòn. Trong khonag3 thời gian này, thầy đã đậu các chứng chỉ Dự bị Hán văn, chứng chỉ Văn chương quốc âm; chứng chỉ văn chương Việt Hán; chứng chỉ Văn chương Trung Hoa; chứng chỉ Hoa văn thực hành. Từ năm 1965-1972, thầy học Cao học Văn chương Trung Hoa, Viện Đại học Sài Gòn.
Thầy nói với tôi: “Với 5 chứng chỉ trên, là thời gian nhanh nhất được cấp bằng Cử nhân giáo khoa văn chương Việt Hán. Số thí sinh được cấp bằng Cử nhân năm 1965 là 156/5.476 người (tỉ lệ 2,8%) và Cử nhân giáo khoa chưa đầy 20 người (tỉ lệ 0,26%)”.
Sau khi học xong, thầy vào nghề dạy học với chức danh Giáo sư ở các trường Khánh Hôi (Sài Gòn), Lê Ngọc Hân (Mỹ Tho), Đoàn Thị Điểm (Cần Thơ); Phụ khảo, Phụ khảo trưởng, Giảng sư văn chương Hán Nôm trường Đại học Văn khoa, trường Đại học sư phạm Cần Thơ (Viện Đại học Cần Thơ), Đại học An Giang (Viện Đại học Hòa Hảo), đặc trách Ban Việt Hán, thành viên Hội đồng tuyển chọn nhân viên giảng huấn Đại học Cần Thơ….
Từ năm 1973-2009, thầy là Cán bộ giảng dạy, Giảng viên, Giảng viên chính của trường Đại học Cần Thơ và tham gia giảng dạy ở hầu hết các tỉnh, thành phố ở khu vực ĐBSCL.
Thầy thống kê rất chi tiết: “trong suốt 46 năm gắn với nghề dạy học, tôi đã tham gia giangh3 dạy cho 500 lớp với 33.561 giờ, tham gia chấm 429.688 bài tập, niên luận, khóa luận, luận văn tốt nghiêp cho 48.722 học sinh, sinh viên. Ngoài ra còn tham gia biên soạn nhiều giáo trình phục vụ giảng dạy trong nhà trường như Văn học sử Việt Nam, Học tập viết văn, Văn chương thế kỷ XX, Văn chương kháng Pháp, Giáo trình Hán Nôm,…; tham gia hiệu đính nhiều tác phẩm như Quốc âm thi tập, Thi nhân Việt Nam, Lâm Tuyền kỳ ngộ, Nam Hải dị nhân liệt truyện, Tỳ bà hành,…; hàng trăm đề tài nghiên cứu về các lĩnh vực Văn chương, địa lý, lịch sử, địa chí, ngôn ngữ, nghệ thuật, giáo dục,…
Cựu SV đang xem lại dấu xưa trong bộ sưu tập của thầy Minh |
Tại buổi họp mặt đầu năm 2018 ở Sóc Trăng, nhiều học sinh ngỡ ngàng, xúc động khi thầy mang theo nhiều “Phiếu sinh viên” mà theo thầy là “Khi dạy lớp nào, tôi đề nghị các em làm cho tôi một lý lịch trích ngang ngắn gọn gồm các thông tin như họ và tên, ngày tháng năm sinh, họ tên cha mẹ và nghề nghiệp, chỗ ở hiên tại, quê quán, điểm thi tốt nghiệp phổ thông, điểm thi vào đại học, năng khiếu gì…kèm theo một tấm ảnh 3x4. Mục đích của tôi là để nắm rõ về học sinh của minh khi các em học và tôi lưu lại các phiếu này một cách rất cẩn thận, coi như đó là kỷ niệm của học sinh với mình. Ngoài ra, tôi còn lưu giữ sổ điểm học sinh môn mình dạy, danh sách sinh viên môn mình dạy sau khi tốt nghiệp đi nhận nhiệm sở. Với tôi, đó là những kỷ niệm, những kỷ vật không thể nào xa rời. Mỗi khi giở ra xem, thấy ấm áp và vui mừng vì học trò của mình đều thành đạt”.
Quan sát bảng ghi tên sinh viên môn Việt Hán K6 chọn nhiệm sở năm 1973, tôi thấy có cả tên của cố Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Lê Vũ Hùng chọn nhiệm sở tại trường Trung học Lai Vung, Sa Đéc, Kiến Phong (nay thuộc huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp). Đến nay, thầy Huỳnh Văn Minh vẫn còn lưu giữ được rất nhiều “Phiếu sinh viên” của các sinh viên học trước năm 1975, được thầy chú thích rất rõ ràng: Học niên khóa nào, khóa mấy, ….Nhiều người trong danh sách này hiện nay đã ngoài 60-70 tuổi cả. Tôi nghĩ rằng, nếu nhưng người sinh viên năm ấy gặp thầy, được thầy cho xem “Phiếu sinh viên” của mình chắc chắn sẽ rất xúc động bởi những tấm hình đen trắng của mấy chục năm về trước cho đến bây giờ vẫn còn rõ nét bởi sự bảo quản chu đáo của thầy.