Người bệnh có tiền sử không phát hiện các bệnh lý mạn tính nhập viện với triệu chứng liệt hoàn toàn nửa người phải, nói khó, được chẩn đoán nhồi máu não cấp do tắc động mạch cảnh trong trái.
ThS.BS Hoàng Quốc Việt, Phó Trưởng khoa Cấp cứu và Điều trị tích cực thần kinh - đột quỵ, Trung tâm Đột quỵ, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Thọ cho biết, số lượng người bệnh đột quỵ nặng và trẻ hóa có xu hướng gia tăng trong thời gian gần đây.
Tỷ lệ người bệnh từ 18 - 45 tuổi mà trung tâm tiếp nhận đã tăng gấp đôi so với các năm trước. Những yếu tố nguy cơ làm gia tăng đột quỵ ở người trẻ liên quan đến các bệnh lý miễn dịch, di truyền và đặc biệt do tác động của lối sống bao gồm: Sử dụng thuốc tránh thai, lạm dụng chất kích thích, rượu bia, thuốc lá, thừa cân béo phì, lười vận động, thức khuya, căng thẳng trong cuộc sống, công việc.
Đặc biệt, nhiều người nghĩ mình còn trẻ, khỏe nên không khám sức khỏe định kì, chỉ tới khi đột quỵ vào viện mới phát hiện mắc các bệnh nền như huyết áp, tim mạch…
Người bệnh nếu bị đột quỵ không được cấp cứu trong “giờ vàng” (4,5 giờ đầu sau khi có triệu chứng đột quỵ) thì cơ hội phục hồi rất khó khăn. Không ít người đã trở thành tàn phế, mất khả năng tự chăm sóc bản thân, mất sức lao động.
Để phát hiện kịp thời, Hội Đột quỵ thế giới khuyến cáo kiểm tra theo quy tắc F.A.S.T. Trong đó, F là Face - mặt, yêu cầu người bệnh cười hoặc nhăn mặt. Nếu một bên mặt bị xệ hoặc không thể cử động bình thường, đó có thể là dấu hiệu của đột quỵ. A là Arms - tay, yêu cầu người bệnh nâng cả hai tay lên, cảnh giác nếu một tay yếu hoặc rơi xuống, không thể giữ vững.
S là Speech - lời nói. Người bệnh lặp lại một câu đơn giản, nếu nói không rõ hoặc không thể nói được có thể là dấu hiệu của đột quỵ. T là Time - thời gian, khi nhận thấy bất kỳ dấu hiệu nào ở trên, hãy gọi cấp cứu ngay lập tức, đưa người bệnh đến cơ sở có khả năng cấp cứu điều trị đột quỵ gần nhất.