Cách đây hơn một thiên niên kỷ, khi nhà Lý lên ngôi, quyết định dời kinh đô từ Hoa Lư ra Thăng Long, các vua Lý đã tính đến chuyện xây một nền văn hiến. Bởi, chỉ có nền văn hiến mới giữ được nền độc lập tự chủ lâu bền, mới có sức đề kháng ngăn chặn mưu toan đồng hóa, nô dịch của những nước lớn.
Tôn vinh sự học văn chương
"Chiếu dời đô” của vị vua đầu triều Lý Thái Tổ đã thể hiện một tầm nhìn sâu rộng, gọi Thăng Long là “nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời”. Thấm nhuần bốn chữ “thượng đô kinh sư”, sang triều vua thứ ba, Lý Thánh Tông đã cho lập Văn Miếu để phụng thờ các vị tiên hiền đạo Nho, tôn vinh sự học văn chương.
Sang đời vua thứ tư, Lý Nhân Tông, mặc dù là thời kỳ phải đối mặt với quân xâm lược nhà Tống, vua vẫn cho xây Quốc Tử Giám, kể từ đây nền giáo dục đại học nước Việt được khai sinh, tuy rằng Trường Quốc Tử Giám thời đó chỉ mới dành cho các con em trong hoàng tộc đến học.
Đến thời Trần, vua Trần Thái Tông đổi Quốc Tử Giám thành Quốc học viện và cho mở rộng để thu nhận cả con em các gia đình thường dân có sức học xuất sắc. Sang đời vua Trần Minh Tông, Chu Văn An được cử làm quan Tư nghiệp Quốc Tử Giám.
Năm 1370, khi Chu Văn An mất, vua Trần Nghệ Tông cho lập khán thờ ở Văn Miếu bên cạnh Khổng Tử. Sang thời Hậu Lê, Nho giáo rất thịnh hành, sự học phát triển rực rỡ.
Trong suốt chiều dài lịch sử, nền khoa bảng nước ta đã chứng kiến nhiều khoa thi và hình thức thi cử mỗi thời cũng có khác nhau, nhưng tựu trung nhất, người muốn được bổ dụng làm quan phải trải qua ba kì thì: Thi Hương, thi Hội, thi Đình, tùy theo chức quan to nhỏ khác nhau.
Kỳ thi nào thí sinh cũng phải làm bài thi ám tả cổ văn, chép một đoạn trong “Tứ thư”, “Ngũ kinh”. Những sách này chứa đựng cả Văn học, Đạo đức học, Luật học… Nói như bây giờ, đó là sách thuộc khối khoa học xã hội và nhân văn.
Nhưng quan trọng nhất là bài thi sáng tác thơ Đường luật và bài văn sách luận về chiến lược xây dựng, cai quản và bảo vệ đất nước. Nếu không đạt một trong hai phần này là trượt. Người học càng giỏi, đỗ đạt càng cao thì được giao những chức quan càng lớn.
Vua cũng không thể ngoại lệ. Bởi vua còn là người trực tiếp chấm bài thi trong kỳ thi quan trọng nhất, gọi là đối sách, viết bằng văn chính luận bàn về phép trị nước để quyết định thí sinh ấy có đỗ tiến sĩ, có được bổ nhiệm chức quan hay không. Vì thế, nhà vua không thể mù mờ về văn học.
Ở nước ta, triều đại nào mà vua yêu văn thì các quan cũng có “không gian văn hóa” để bộc lộ tài năng. Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, nếu theo cách gọi bây giờ, ông là một đại nguyên soái. Nhưng vị đại nguyên soái này không chỉ giỏi gươm đao, mà còn có cả tố chất văn chương, nhờ thế ông mới sáng tác nên áng hùng văn “Hịch tướng sĩ” như một lời hiệu triệu quân dân tham gia kháng chiến chống quân Nguyên - Mông, nhờ vậy mà chiến thắng của quân dân ta mới vang dội đến thế.
Nếu thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn Lê Lợi không nhìn ra tài văn của Nguyễn Trãi và thu nhận ông tham gia kháng chiến chống giặc Minh, chỉ định đích thân Nguyễn Trãi viết “Đại cáo bình ngô” thì trong di sản văn hiến Việt Nam sẽ không thể có những áng văn kiệt xuất ấy. Ngược lại, nếu không có “Đại cáo bình ngô” của Nguyễn Trãi làm nức lòng quân sĩ thì cuộc kháng chiến chống giặc Minh khó có thể thắng lợi vẻ vang đến thế.
Ở đây, rõ ràng cả chủ tướng Lê Lợi và văn thần Nguyễn Trãi đều nhìn ra thứ vũ khí mềm mại nhưng vô cùng lợi hại, đó là văn chương. Văn chương làm vũ khí tập hợp đoàn kết dân tộc, cổ vũ tinh thần tướng sĩ, làm bải hoải rã rời tinh thần quân giặc.
Đó chỉ là tác dụng trước mắt, còn tác dụng dài lâu chính là văn chương làm giàu có cho tâm hồn mỗi con người, góp phần quan trọng làm nên nguyên khí quốc gia (theo cách nói của Thân Nhân Trung sau đó ít năm). Cái nguyên khí ấy qua thời gian hình thành một nền văn hiến làm nên diện mạo và cốt cách dân tộc Việt Nam.
“Lấy nhân tài làm gốc”
Tư tưởng “Nước lấy dân làm gốc” đã được nhiều người, nhiều thế hệ hôm nay nhắc đi nhắc lại đến quen thuộc. Nhưng tư tưởng “Trị nước phải lấy nhân tài làm gốc” đã có từ lâu nhưng ít người biết tới. Trong hàng trăm bài văn sách thi Đình còn lại đến ngày nay, bài của Trạng nguyên Nguyễn Trực viết rất hay về ý tưởng này, nó quán xuyến suốt cuộc đời làm quan của ông sau này.
Trong kì thi Đình năm 1469, vua Lê Thánh Tông phân công Nguyễn Trực làm chánh chủ khảo, ông đã phát hiện và chấm bài luận văn của Thân Nhân Trung đỗ tiến sĩ đầu khoa. Sau đó, Thân Nhân Trung đã thể hiện được tài năng của mình khiến vua Lê Thánh Tông đặc biệt ngợi khen.
Để dẫn dắt công chúng đến với văn chương và vinh danh văn chương, vua Lê Thánh Tông cho lập Tao đàn nhị thập bát tú gồm 28 thành viên có văn tài do đích thân vua làm Đô súy (Tao đàn trưởng) và ngài đã bổ nhiệm Thân Nhân Trung làm Phó Đô súy.
Để vinh danh hiền tài, Lê Thánh Tông thấy cần thiết phải dựng bia đá đề tên tiến sĩ, nói lên vai trò của hiền tài như một điều kiện quan trọng bậc nhất để làm nên sự hưng thịnh cho xứ sở. Thân Nhân Trung, người giỏi văn nhất khoa thi Đình 1469, được vua sai soạn lời khắc lên tấm bia tiến sĩ đầu tiên.
Tấm bia ghi danh những tiến sĩ khoa thi 1442. Thân Nhân Trung viết: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì đất nước mạnh và càng lớn lao, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà càng xuống thấp. Bởi vậy các bậc vua tài giỏi đời xưa, chẳng có đời nào lại không chăm lo nuôi dưỡng và đào tạo nhân tài bồi đắp thêm nguyên khí”.
Hành xử xuất sắc
Bằng kiến văn sâu rộng và khả năng đối thoại sắc bén, khôn khéo có những quan văn chịu hy sinh tính mạng để giữ thể diện cho quốc gia, dân tộc. Ảnh: IT |
Sau này, khi nhà Lê đã bước sang thời mạt, kể cả sang thời Lê trung hưng thì truyền thống coi hiền tài là gốc vẫn còn lan tỏa, vẫn xuất hiện những đại thần rất giỏi khoa học xã hội và nhân văn như Nguyễn Công Hãng, Phùng Khắc Khoan, Lê Quý Đôn, Nguyễn Bỉnh Khiêm…
Văn chương đã bồi đắp, trui rèn cho họ một bản lĩnh cao cường để họ hành xử xuất sắc trong những tình huống khó khăn. Vào những triều vua suy vi, họ đã dũng cảm can gián vua không nên làm những điều gây hại cho cung đình và xã tắc.
Nhiều quan văn được cử đi sứ, bằng kiến văn sâu rộng và khả năng đối thoại sắc bén, khôn khéo đã thiết lập được những mối bang giao mang lại nhiều lợi ích cho đất nước. Thậm chí có những quan văn chịu hy sinh tính mạng để giữ thể diện cho quốc gia, dân tộc.
Chẳng hạn, triều vua Lê Thần Tông, có chuyện một lần đi sứ mà nhiều bộ sử còn ghi lại. Giang Văn Minh làm Chánh sứ, đến Yên Kinh vào năm 1638. Chưa kịp bàn chuyện “quốc gia đại sự”, ông vua ngạo mạn Sùng Trinh đã ra một vế đối: Đồng trụ chí kim đài dĩ lục. Nghĩa là: Đồng trụ đến giờ rêu vẫn mọc. Câu này có hàm ý nhắc tới việc Mã Viện từng đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, sau đó cho chôn một chiếc cột đồng với lời nguyền: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” (Cột đồng gãy thì Giao Chỉ - tức Đại Việt - bị diệt vong).
Giang Văn Minh liền dõng dạc đối lại bằng câu: Đằng Giang tự cổ huyết do hồng. Nghĩa là: Sông Bạch Đằng thuở trước máu còn loang đỏ. Vế đối này nhằm nhắc vua Sùng Trinh chuyện người phương Bắc đã ba lần mang quân sang xâm lược bị người Việt đánh cho tan tác trên sông Bạch Đằng máu hãy còn đỏ, hãy nhớ bài học vô cùng đắt giá ấy mà liệu đường ứng xử!
Sùng Trinh bừng bừng nổi giận, quên mất thể diện quốc gia, bất chấp luật lệ bang giao, đã ra lệnh đổ trám đường vào miệng và mắt Giang Văn Minh, rồi cho mổ bụng xem “bọn sứ thần An Nam to gan lớn mật đến đâu”.
Khi thi hài Giang Văn Minh về đến Kinh thành Thăng Long, vua Lê Thần Tông bái kiến linh cữu, truy tặng chức Công bộ Tả thị lang, tước Vinh quận công, và ban tặng câu “Sứ bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng”. Nghĩa là Sứ thần không làm nhục mệnh vua, xứng đáng là anh hùng thiên cổ.
Công việc tay trái?
Tuy nhiên, quan niệm của người xưa, trong ba yếu tố làm nên danh phận một con người: Lập đức, lập công, lập ngôn thì văn chương thuộc Lập ngôn, đứng hàng thứ ba.
Bởi vậy không ít những viên quan văn khi con đường làm quan còn hanh thông thì coi văn chương là công việc tay trái; chỉ khi gặp trắc trở “bất đắc chí” thì họ mới thức tỉnh, dành thời gian cho sáng tác văn chương, ký thác vào đó mọi nỗi niềm của mình.
Nói về lập ngôn, cụ Phan Bội Châu, một chí sĩ lớn của phong trào Cần Vương, từng có những tác phẩm kêu gọi nhân dân quên mình vì nước. Tuy nhiên, về cuối đời cụ Phan lại sáng tác một bài thơ chữ Hán, trong đó có câu “Lập thân tối hạ thị văn chương” (Lập thân, thấp nhất mới dùng đến văn chương).
Có người kì thị với văn học đã dịch thành “Lập thân, hèn nhát, ấy văn chương”. Câu thơ dịch đầy vẻ khinh bạc, thậm xưng này đã tạo ra một cuộc tranh cãi, người phản đối, người đồng tình. Có thể chữ “tối hạ” bị hiểu thành “hạ sách” chăng? Thực ra suốt cuộc đời mình, cụ Phan đâu phải người khinh bạc văn chương.
Bài thơ có câu gây tranh cãi kia cụ Phan sáng tác vào thời đoạn mà một con người đầy khí phách lại bị quân xâm lược kiềm tỏa, tước mất mọi khả năng hoạt động, chỉ còn văn chương là phương tiện cuối cùng để thể hiện cái tâm cái chí của mình nên cụ bi phẫn mà viết thế, như là để tự nhạo báng mình, chứ con người trọng văn hóa như cụ sao lại có thể coi thường văn chương!
Đại thi hào Nguyễn Du cũng từng rơi vào thảm trạng bế tắc, gần như sắp chết đói, vậy chúng ta có nên trách ông khi ông viết “Nhất sinh từ phú tri vô ích/Mãn giá cầm thư đồ tự ngu” (Một đời chuyên từ với phú, biết là vô ích/Đầy giá toàn những sách với đàn, rút cuộc cũng chỉ tự mình làm ngu mình).
Ở đây cần phải hiểu rằng, một thi hào trọng thị văn chương như Nguyễn Du nói vậy mà không phải vậy. Đọc những câu như thế cần phải có độ nhạy cảm để hiểu đến tận đáy của ý tưởng thì mới cảm thông với tâm trạng bi phẫn đến cùng cực của kẻ sĩ.
Nguyễn Bính cũng từng viết: “Nhất kiêng đừng lấy chồng thi sĩ/Nghèo lắm con ơi, bạc lắm con!”, theo tôi, nhà thơ chân quê viết những câu thơ này trong một hoàn cảnh rất cụ thể của ông, ấy là khi ông không một xu dính túi và bị người đời đối xử rất bạc bẽo, đến độ gần như ông phải tìm đến bạn bè ăn nhờ ở cậy, chứ người cả đời sống chết vì thơ như Nguyễn Bính không thể có chuyện khinh khiến thi ca! Nhưng không phải ai cũng hiểu như thế.
Cho nên ở thời điểm này thời điểm khác vẫn có những người bám lấy những câu thơ như thế mà xem nhẹ văn chương.
Khó tìm thấy người đọc văn nghiêm cẩn
Bước vào thời công nghiệp hóa - đô thị hóa - kỹ thuật số hóa, không phải không có những người nghĩ rằng: Thời xưa, khi mà khoa học kỹ thuật chưa phát triển thì con người có thời gian để dành cho văn chương là điều tất yếu; còn bây giờ, phải tận dụng triệt để thời gian cho công cuộc làm giàu phát triển đất nước mới là ưu tiên số 1.
Nghĩ như thế không có gì sai. Nhưng nếu xem trọng làm giàu mà xem nhẹ khoa học nhân văn thì lại rất cực đoan, dẫn đến sự phát triển lệch lạc. Hãy quan sát cuộc sống bây giờ: Độc giả văn học ngày càng ít đi, về nông thôn hôm nay rất khó tìm thấy một người đọc văn nghiêm cẩn.
Hưởng ứng chủ trương xây dựng nông thôn mới, các ngôi làng hầu như đều có nhà văn hóa, trong đó thường có gian thư viện. Nhưng thư viện chỉ đông đúc trong ngày cắt băng khai trương, sau đó cứ thưa vắng dần, rồi dăm bữa nửa tháng nó chỉ còn là nơi trưng bày cho đủ lệ bộ của một nhà văn hóa theo tiêu chuẩn nông thôn mới để khách đến tham quan quay phim chụp ảnh. Người được giao trông coi nhà văn hóa không có một chút chuyên môn về thư viện, không biết chọn sách.
Đấy là chưa kể phần lớn là sách của các tác giả nghiệp dư, nội dung nhạt nhẽo, vô bổ, nghệ thuật cũ kỹ từ rất nhiều câu lạc bộ thơ ca mọc lên như nấm sau mưa bán rẻ hoặc hiến tặng.
Tác phẩm văn được tuyển chọn trong sách giáo khoa bây giờ chủ yếu phục vụ cho học ngôn ngữ mà ít giá trị văn học. Một số người được giao tuyển chọn chưa đạt đến tầm lịch duyệt về văn hóa. Họ cũng mắc phải những nhược điểm mà nhiều người thường mắc phải như thiên kiến, phe nhóm, cục bộ.
Do vậy, học sinh ngày càng ít trọng thị và tâm huyết với văn chương. Kinh tế tăng trưởng, xã hội hình thành một tầng lớp giàu có, thụ hưởng đầy đủ thành quả của công cuộc đổi mới, trong nhà đồ đạc bóng lộn, tủ lớn tủ bé đựng đầy những kỷ vật, những chai rượu ngoại đắt tiền, nhưng không tìm thấy một cuốn sách văn học. Tầng lớp giàu xổi, tiền nhiều mà kiến văn hạn hẹp này người ta gọi tên không gì chuẩn xác hơn bằng hai từ “trọc phú”.