Kỳ 3: Từ điển cũng sai chính tả
X - S lẫn lộn
“Chia năm sẻ bảy”: Tác giả NVK cho rằng “chia năm sẻ bảy” trong tiếng Việt đồng nghĩa với “tứ phân ngũ liệt” trong tiếng Hán. Tuy nhiên, viết đúng phải là “chia năm xẻ bảy”. Vì “xẻ” mới có nghĩa là cắt ra.
Nếu “chia xẻ” trong tiếng Việt có nghĩa “chia thành nhiều phần làm cho không còn nguyên là một khối nữa, thì “phân liệt” trong tiếng Hán cũng có nghĩa là “chia cắt, xé lẻ, khiến cho chỉnh thể của sự vật không còn nguyên vẹn.
Như vậy, phải viết “chia năm xẻ bảy” mới tương ứng với “tứ phân ngũ liệt” (= chia bốn, xẻ năm) mà NVK đối chiếu.
“Chia ngọt xẻ bùi: Tác giả cho rằng, “chia ngọt xẻ bùi” trong tiếng Việt đồng nghĩa với “đồng cam cộng khổ”, “phân cam cộng khổ” và “hữu phúc cộng hưởng” trong tiếng Hán. Tuy nhiên, viết đúng phải là “sẻ bùi”, vì “sẻ” ở đây là “chia sẻ”, cùng hưởng cùng chịu, tương ứng với “đồng cam”, “phân cam”, “cộng hưởng” trong tiếng Hán:
- Hoàng Phê – Vietlex: “chia ngọt sẻ bùi” - chia sẻ với nhau, cùng hưởng với nhau, không kể ít hay nhiều. “Hai người như đã trở thành đôi bạn tâm giao cùng nhau chia ngọt sẻ bùi”. (Mạnh Phú Tư)
- Hán ngữ đại từ điển: “Đồng cam cộng khổ, cũng viết “đồng cam khổ”: Cùng hưởng vị ngọt, đắng. Tỉ dụ có phúc cùng hưởng, hoạn nạn cùng chịu. Thường chỉ việc cùng chịu hoạn nạn.
Theo đây, tác giả NVK đã làm ngược lại chuẩn chính tả, làm sai lệch ý của dân gian. Chỗ phải viết x thì thành s, chỗ phải viết s thì thành x.
Đây là kiểu sai đã từng xuất hiện trong “Từ điển chính tả tiếng Việt” (GS.TS NVK - NXB Đại học Quốc gia Hà Nội – 2018) khi tác giả hướng dẫn viết “nhường cơm xẻ áo”.
“Có trí làm quan”: Chính xác phải là “có chí làm quan” (dị bản “có chí làm quan, có gan làm giàu”). Vì “chí” là “ý muốn bền bỉ nhằm theo đuổi một mục đích...”, còn “trí” lại là “khả năng nhận thức, ghi nhớ, suy nghĩ, phán đoán...” (Hoàng Phê -Vietlex).
Đây là hiện tượng cận âm dị tự, dị nghĩa. Nghĩa của “chí” mới phù hợp với ngữ nghĩa trong “có chí làm quan”. Cũng như người ta nói “có chí thì nên”, hoặc “hữu chí cánh thành”, chứ không ai nói “có trí thì nên”, “hữu trí cánh thành”. NVK viết “có trí làm quan” là do không biết hoặc không phân biệt được nghĩa của hai chữ Hán “chí 志” và “trí 智”.
“Bách triết thiên ma”: Đây là lỗi chính tả NVK từng mắc trong “Từ điển chính tả tiếng Việt” (xuất bản 2013 và 2018) khi đưa ra lời khuyên ngược lại với chuẩn chính tả: “Triết: Bách triết thiên ma, thiên ma bách triết → không viết: Chiết”. Với lỗi này, chúng tôi trao đổi như sau:
“Viết “chiết” mới đúng. Nhiều từ điển thường giải thích “bách chiết thiên ma” là trăm lần gãy, nghìn lần mài, nhưng thực ra trong Hán ngữ, “chiết ma” 折磨 được hiểu theo nghĩa bóng = đau đớn, khổ sở. “Bách chiết thiên ma” hay “thiên ma bách chiết” = trăm đau, ngàn khổ, ý nói trải qua muôn vàn gian nan vất vả.
Đây là cách nói giống như tân khổ 辛苦 (cay đắng); thiên tân vạn khổ 千辛萬苦 = trăm đắng ngàn cay). Ví dụ “Có lẽ trời muốn trao cho gánh nặng, bắt trải qua bách chiết thiên ma/Cho nên ta cố gắng gan bền, chấp hết cả nhất sinh thập tử” (Lam Sơn thực lục - NXB Tân Việt, 1963).
“Mặt sưng mày xỉa”: Phải là “mày sỉa” mới đúng, vì “sỉa” mới có nghĩa là sưng. Đây là lỗi tác giả NVK từng mắc trong “Từ điển chính tả tiếng Việt”, và ông đưa ra lời khuyên đi ngược lại với chuẩn chính tả:
“Xỉa: Xưng xỉa. → không viết: Sỉa”. Với lỗi này, chúng tôi trao đổi như sau: “Viết chuẩn là “sưng sỉa” (từ ghép đẳng lập): “Sưng” = phồng, phù da thịt lên (như sưng mặt; sưng phù); “sỉa” = sưng phù lên (như “Mặt sưng mày sỉa”). Hoàng Phê - Vietlex: “sưng sỉa t. (Mặt) nặng ra và như sưng lên, lộ rõ vẻ không bằng lòng. Mặt sưng sỉa như đang chửi nhau”.
“Toạ thực sơn băng ≈ miệng ăn núi lỡ, ngồi ăn núi lỡ”: Phải viết “núi lở” mới đúng, bởi bản gốc Hán mà tác giả NVK so sánh là 坐食山崩 (toạ thực sơn băng), trong đó “băng” 崩 nghĩa là sụt, lở (chỉ ngồi ăn không thì đến như núi cũng lở).
Còn viết “núi lỡ”, thì chỉ có thể hiểu là núi không lớn mà cũng không nhỏ(!). Tuy nhiên, nếu chỉ về độ to nhỏ, thì thường nói “núi nhỡ” chứ không viết “núi lỡ”. Tác giả NVK là người vùng Sơn Tây, không hiểu vì sao ở mục này lại mắc lỗi chính tả, nhầm lẫn hỏi – ngã của người miền Trung.
“Vén tay áo xô, đốt nhà táng giấy”: Phải là “áo sô” mới đúng. Vì “sô” mới có nghĩa là “vải thô, dệt thưa, thường dùng để may màn hoặc làm khăn, áo tang. Tấm khăn sô ~ may màn bằng vải sô” - (Hoàng Phê - Vietlex).
Mục này, ngoài sai chính tả, tác giả NVK còn mắc thêm lỗi thu thập và đối chiếu nhiều đơn vị thành ngữ tục ngữ Việt và Hán không đồng nghĩa, thậm chí trái nghĩa.
“Việc nọ sọ việc kia”: Phải viết “việc nọ xọ việc kia” mới đúng. Vì “xọ” mới có nghĩa “chuyển đột ngột sang câu khác, chuyện khác không dính líu gì với nhau. câu nọ xọ câu kia ~ “Hai đứa tôi, gặp nhau chuyện nọ xọ chuyện kia, đủ thứ chuyện đời” - (Hoàng Phê - Vietlex).
Sai có chủ ý
“Xảy chân còn đỡ, lỡ miệng khó chữa”, “xảy nhà ra thất nghiệp”, “xẩy chân còn đỡ, lỡ miệng khó chữa. x. xảy chân còn đỡ, lỡ miệng khó chữa”:
Ba mục 56, 57 và 58, NVK đã phạm tới 4 lỗi chính tả. Theo đây, phải viết “sảy chân”, “sẩy nhà”, “sẩy chân”… mới đúng. Hoàng Phê - Vietlex: “sẩy đg. 1 sơ ý, làm một động tác [tay, chân, miệng, v.v.] biết ngay là thiếu cẩn thận nhưng không kịp giữ lại được, để xảy ra điều đáng tiếc. Sẩy chân còn hơn sẩy miệng (tng) ~ “Xa sông xách nước bằng chình, Sẩy tay rớt xuống, gẫm mình vô duyên” (Ca dao)”.
Viết xảy/xẩy (ra) như NVK, nghĩa không phù hợp với các thành ngữ trên.
“Trăm voi không được bát nước sáo”: Phải viết “nước xáo” mới đúng. Vì “nước xáo” mới có nghĩa là nước luộc thịt có hương vị tổng hợp của xương, thịt, lòng, mề, tim, gan, tiết... Hoàng Phê - Vietlex: “Xáo: Nấu thịt với nhiều nước và các loại rau, gia vị riêng. vịt xáo măng ~ trăm voi không được bát nước xáo”.
Ngoài lỗi chính tả, “Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt - Hán” của NVK còn có khá nhiều lỗi mà chúng tôi tạm xếp vào dạng lỗi văn bản. Sở dĩ chúng tôi nói tạm xếp vào dạng lỗi văn bản, bởi có thể những cái sai mười mươi đó lại là sự lựa chọn, chủ ý của tác giả - một kiểu sai giống hệt trong sách “Từ điển chính tả tiếng Việt” của chính GS.TS Nguyễn Văn Khang.
“Đắc ngư vọng thuyền”: Chính xác phải là “đắc ngư vong thuyên” (được cá quên nơm; vong 忘 = quên; thuyên 筌 = nơm). Điều nguy hiểm là cả hai lỗi “vọng” và “thuyền” trong trường hợp này đều có nghĩa, khiến người ta có thể hiểu “đắc ngư vọng thuyền” thành “được cá nhớ thuyền”.
“Mã cách loả thi 馬革裹尸”: Chính xác là “mã cách quả thi”, bởi “quả” mới có nghĩa là gói, bọc lại (mã cách quả thi 馬革裹尸= da ngựa bọc thây). Trên bàn phím hai con chữ “q” và “l” ở rất xa nhau, không hiểu vì sao chữ “quả 裹” lại nhầm thành “loả”. Không lẽ soạn giả từ điển nghe mang máng âm “oả” đâu đó rồi gõ chừng?
“Như hổ mọc (thêm) cánh 如虎添翼 ≈ như cọp thêm cánh; như hổ thiên dực”: Chính xác là “như hổ thiêm dực” (đúng như phần nguyên văn chữ Hán của NVK), bởi “thiêm” 添 mới có nghĩa là “thêm” (như hổ thiêm dực 如虎添翼 = như hổ thêm cánh).