Tháo gỡ vướng mắc, tạo đà cho giảm nghèo bền vững cho giai đoạn 2026 - 2030

GD&TĐ - Sau gần 5 năm triển khai, chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững đã mang lại kết quả tích cực...

Sau gần 5 năm triển khai, chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 đã mang lại nhiều kết quả tích cực, song cũng bộc lộ không ít hạn chế, đòi hỏi sớm được tháo gỡ để tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn 2026–2030.

Một số hạn chế, bất cập

Trong bối cảnh Việt Nam hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 đã trở thành một trong những động lực quan trọng và đến nay đạt nhiều kết quả tích cực.

Theo Báo cáo tóm tắt kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2025 và giai đoạn 2021–2025 của Chính phủ, tỷ lệ hộ nghèo đa chiều trên cả nước đã giảm mạnh từ 4,4% năm 2021 xuống còn khoảng 1,3% năm 2025, vượt mục tiêu Quốc hội đề ra. Tỷ lệ xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo thoát khỏi tình trạng khó khăn đạt 35,2%, cao hơn mục tiêu 30%.

Đặc biệt, đến năm 2025, có 19 xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo dự kiến thoát khỏi diện khó khăn; 3.981 hộ tự chủ kinh tế hơn nhờ thực hiện các chính sách hỗ trợ. Nhiều địa phương ghi nhận sự chuyển biến rõ nét khi tỷ lệ hộ nghèo giảm đều qua từng năm, diện mạo nông thôn vùng sâu, vùng xa ngày càng khởi sắc. Phong trào thi đua “Vì người nghèo – không để ai bị bỏ lại phía sau” lan tỏa sâu rộng, góp phần thay đổi nhận thức, khơi dậy tinh thần tự lực, vươn lên của người nghèo…

z7335631354818-107f3d6e9da136ebe27c0d005835eba9.jpg
Công tác giảm nghèo dù có nhiều kết quả vẫn còn nhiều thách thức, cần đẩy mạnh các giải pháp thời gian tới. Ảnh TL

Tuy vậy, hành trình giảm nghèo bền vững vẫn còn nhiều thách thức, nhất ở các tỉnh miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thực tiễn triển khai cho thấy hệ thống văn bản hướng dẫn còn phức tạp, số lượng lớn, nhiều nội dung phải sửa đổi, bổ sung, thậm chí chưa thống nhất, chậm ban hành hoặc thiếu đồng bộ. Điều này khiến không ít địa phương lúng túng trong tổ chức thực hiện, nhất là khi phân bổ chi tiết nguồn vốn cho từng dự án, tiểu dự án.

Dù tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm mạnh, song tốc độ giảm chưa đồng đều; nhiều nơi còn chịu tác động nặng nề của thiếu đất sản xuất, thị trường tiêu thụ bấp bênh và rủi ro thiên tai. Biến đổi khí hậu, thiên tai cực đoan khiến sinh kế của người nghèo dễ bị tổn thương, nguy cơ tái nghèo gia tăng.

Bên cạnh đó, năng lực cán bộ giảm nghèo chưa đồng đều; chuyển đổi số trong quản lý dữ liệu hộ nghèo còn hạn chế; nguồn lực đầu tư đôi khi bị phân tán, điều chỉnh nhiều lần, ảnh hưởng tiến độ và hiệu quả triển khai.

Tỷ lệ giải ngân của Tiểu dự án 1, Dự án 4 về phát triển giáo dục nghề nghiệp vùng nghèo của một số địa phương còn thấp do chưa có tiêu chí rõ ràng xác định “người lao động có thu nhập thấp”. Trong khi đó, phần lớn lao động thuộc hộ nghèo, cận nghèo là đối tượng bảo trợ xã hội, ít khả năng hoặc nhu cầu học nghề, gây khó khăn cho việc mở lớp đào tạo.

Tạo đà cho giai đoạn 2026–2030

Để công tác giảm nghèo trong giai đoạn tới tiếp tục đạt được kết quả khả quan, mỗi địa phương cần chủ động rà soát, phân tích toàn diện khó khăn, hạn chế; xác định rõ nguyên nhân chủ quan và khách quan tác động đến tiến độ giảm nghèo. Việc làm này không chỉ giúp định hướng đúng đắn cho hành trình giảm nghèo sắp tới, mà còn góp phần tạo nền tảng bền vững hơn để nâng cao chất lượng cuộc sống người dân và thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền.

Từ thực tiễn triển khai, nhiều địa phương đã chủ động đề xuất giải pháp tháo gỡ. Tỉnh Lai Châu kiến nghị Trung ương hoàn thiện cơ chế chính sách theo hướng tăng cường phân cấp, giảm số lượng văn bản hướng dẫn, tránh chồng chéo. Giai đoạn 2021–2025, Trung ương ban hành hơn 143 văn bản, địa phương phải cụ thể hóa tới 174 văn bản, tạo áp lực lớn cho cấp cơ sở.

Điện Biên đề xuất không giao cho cấp tỉnh quy định thủ tục hành chính đối với các hoạt động hỗ trợ phát triển sản xuất sử dụng ngân sách Trung ương; đồng thời cần quy định rõ nội dung chi, mức chi, trình tự thực hiện các dự án liên kết theo chuỗi giá trị để thuận lợi triển khai.

Quảng Trị kiến nghị hợp nhất các dự án, tiểu dự án có nội dung tương đồng về hỗ trợ sinh kế thành một dự án thống nhất nhằm tránh trùng lặp, phân tán nguồn lực. Tỉnh cũng đề nghị sớm ban hành Khung chương trình tổng thể giai đoạn 2026 - 2030, bảo đảm thống nhất các dự án thành phần, nội dung hoạt động và đối tượng thụ hưởng, hạn chế tối đa việc điều chỉnh giữa kỳ gây ảnh hưởng tiến độ thực hiện ở cơ sở.

Giai đoạn 2026–2030 đặt ra yêu cầu cao hơn khi chuẩn nghèo đa chiều ngày càng tiệm cận tiêu chuẩn quốc tế. Việc nhận diện rõ khó khăn, đánh giá đúng thực trạng và đề xuất giải pháp khả thi là điều kiện tiên quyết, qua đó tạo nền tảng cho phát triển bền vững và không để ai bị bỏ lại phía sau.

Tạo đà cho giai đoạn 2026–2030, các chuyên gia và địa phương cho rằng cần tập trung vào ba nhóm giải pháp trọng tâm: hoàn thiện hệ thống quản trị và dữ liệu giảm nghèo theo hướng số hóa; đổi mới mô hình sinh kế gắn với chuỗi giá trị, thích ứng biến đổi khí hậu; nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ cơ sở gắn với trách nhiệm giải trình.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ

Người bệnh điều trị mất ngủ. Ảnh: Trung Vũ

Rối loạn giấc ngủ do thói quen thức khuya

GD&TĐ - Thức khuya, ngủ ít để làm việc, giải trí khiến nhiều người trẻ bị rối loạn giấc ngủ, mệt mỏi, giảm hiệu suất lao động và đối mặt nguy cơ tai nạn.